Tóm tắt: Bài viết phân tích một số vướng mắc, bất cập khi áp dụng Bộ luật hình sự xử lý tội buôn lậu và các tội sản xuất, buôn bán hàng giả trong thực tiễn. Việc nhận thức và áp dụng Bộ luật hình sự trong một số trường hợp không bảo đảm sự chính xác có thể xuất phát từ những quy định thiếu chính xác của các văn bản pháp luật khác nhau. Từ đó, tác giả bài viết đề xuất các giải pháp sửa đổi các quy định này bảo đảm cho các quy định của Bộ luật hình sự được nhận thức và áp dụng đúng, chính xác trong thực tiễn.
Abstract: This article provides analysis of a number of shortcomings, inadequacies of the Criminal Code to deal with the smuggling criminal, production and trading criminal of counterfeit goods. The awareness and application of the Criminal Code in some cases do not guarantee the accuracy, which might be stem from the inappropriate provisions in different legal documents. Then, the author has proposed solutions to amend these regulations to ensure that the provisions of the Criminal Code are in proper awareness and applied correctly and accurately in practices.
1. Những bất cấp cập, hạn chế trong quy định của pháp luật về tội buôn lậu, tội sản xuất, buôn bán hàng giả
Nghiên cứu các tội buôn lậu và các tội sản xuất, buôn bán hàng giả và việc áp dụng xử lý các tội này trong thực tiễn những năm gần đây, chúng tôi nhận thấy có một số điểm bất cập trong quy định của pháp luật dẫn đến việc áp dụng các tội này không đúng, không chính xác.
Theo quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015), tội buôn lậu được hiểu là hành vi buôn bán qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại trái pháp luật hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý trị giá từ 100.000.000 đồng (trở lên) hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp (được quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản 1 Điều 188 BLHS).
Tính trái pháp luật của hành vi buôn bán (nêu trên) thể hiện bằng việc là hành vi buôn bán qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại (các đối tượng hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ…) trái với quy định của pháp luật như không khai báo, khai báo gian dối… hoặc có sự trốn tránh kiểm soát của cơ quan có thẩm quyền (như cơ quan hải quan, biên phòng…).
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là hành vi buôn bán (trao đổi) những thứ biết rõ là hàng giả nhằm thu lợi bất chính (bao gồm cả hành vi chào hàng, bày bán, lưu giữ, bảo quản, vận chuyển, xuất nhập khẩu…)[1].
Theo quy định của BLHS, dấu hiệu hành vi phạm tội của 2 tội nêu trên khá rõ, việc xác định tội phạm (định tội) đối với các hành vi hành vi phạm tội của các tội này (có lẽ) không có vấn đề cần phải bàn cãi. Tuy nhiên, vấn đề phát sinh là việc người phạm tội có hành vi buôn bán hàng giả qua biên giới. Hành vi buôn bán hàng giả qua biên giới sẽ bị xử lý về tội buôn lậu (Điều 188 BLHS) hay tội sản xuất, buôn bán hàng giả (theo các Điều 192 đến Điều 195 BLHS, tùy theo đối tượng hàng giả tương ứng được quy định tại các điều luật này) với tình tiết định khung hình phạt tăng nặng “buôn bán qua biên giới” (điểm l khoản 2 Điều 192 hoặc điểm e khoản 2 Điều 193, 194, 195 BLHS)?
Trong thực tiễn, “có thể” do nhận thức không đúng nên có trường hợp người phạm tội có hành vi buôn bán (nhập khẩu) thuốc chữa bệnh giả qua biên giới mà khi xét xử, Tòa án đã kết án người phạm tội về tội buôn lậu[2]. Tuy nhiên, khi trả lời về những bức xúc của dư luận về tội danh đối với người phạm tội trong vụ án này, có ý kiến cho rằng, “về tội danh, có ý kiến xử là tội “buôn lậu” hay tội “sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh”. Bây giờ chúng ta phải thừa nhận một điều rằng, xử tội nào cũng phải thiếu một vế. Xử tội “buôn lậu” thì thiếu vế “hàng giả”, xử tội “hàng giả” thì thiếu vế “buôn lậu”. Bởi vậy, không thể nào trọn vẹn hết[3]. …Quan điểm buôn lậu ở đây là buôn lậu trái phép qua biên giới và không phụ thuộc hàng giả, hàng kém chất lượng… Còn nếu xử tội hàng giả thì đó là hành vi buôn bán (trao đổi) những thứ biết rõ là hàng giả (trong nước) chứ không có yếu tố buôn lậu qua biên giới. Rõ ràng đây là yếu tố buôn lậu”[4].
Bản án sơ thẩm đối với vụ án (nêu trên) sau đó đã bị hủy để điều tra xét xử lại theo hướng xử lý về hành vi buôn bán thuốc chữa bệnh giả[5]. Ở đây, vấn đề mấu chốt là dấu hiệu “hàng hóa” (đối tượng của tội buôn lậu) được quy định tại Điều 188 BLHS có bao gồm hàng giả hay không? Nếu “hàng hóa” không bao gồm “hàng giả” thì việc nhận thức sai, dẫn đến định tội danh sai của Tòa án đã xét xử vụ án nêu trên là không thể chấp nhận được. Nếu “hàng hóa” bao gồm cả “hàng giả” thì việc xét xử hành vi buôn bán “thuốc chữa bệnh giả” qua biên giới về tội buôn lậu của tòa án đã xét xử vụ án nêu trên là chấp nhận được.
Vậy, hàng hóa là gì, hàng giả là gì, pháp luật Việt Nam có quy định “hàng hóa giả” không?
– Hàng hóa: Hiện nay không có văn bản nào đưa ra định nghĩa hay khái niệm về “hàng hóa” mà chỉ có một số quy định liệt kê các đối tượng hàng hóa. Ví dụ: Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Hàng hóa bao gồm: a) Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; b) Những vật gắn liền với đất đai”; khoản 2 Điều 3 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 quy định: “Hàng hóa là máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, nhiên liệu, hàng tiêu dùng, động vật sống và các động sản khác được vận chuyển bằng phương tiện giao thông đường bộ”…
Theo Từ điển Tiếng Việt, hàng hóa được hiểu là: “sản phẩm do lao động làm ra được mua bán trên thị trường”[6].
Tương tự như vậy, một số công trình khoa học cũng định nghĩa: “Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán”[7]. Theo đó, hàng hóa có hai thuộc tính là: giá trị sử dụng và giá trị[8]. Đây là thuộc tính không thể thiếu của hàng hóa. Nói một cách khác, một vật chỉ được coi là hàng hóa khi nó có giá trị sử dụng và giá trị[9]. Nhà nước khuyến khích sản xuất hàng hóa, bảo vệ việc sản xuất hàng hóa là nhằm làm cho hàng hóa được sản xuất ra ngày càng nhiều, có giá trị cao, thỏa mãn ngày càng nhiều các nhu cầu của con người và xã hội.
Bên cạnh hàng hóa, có nhiều văn bản pháp luật còn quy định hàng giả. Vậy, hàng giả là gì và theo quy định của pháp luật Việt Nam, có “hàng hóa giả” không?
Từ trước đến nay, trong các văn bản pháp luật của nước ta (ngoại trừ Nghị định số 140 ngày 25/4/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) quy định về kiểm tra, xử lý việc sản xuất, buôn bán hàng giả[10]) chưa có văn bản pháp luật nào quy định khái niệm hay định nghĩa về hàng giả, mà chỉ nêu, liệt kê một số loại hàng giả (như hàng giả về nội dung, hàng giả về hình thức)[11].
Vậy, hàng giả là gì?
“Giả” thì không phải là thật. “Giả” thì không hợp pháp. “Giả” thì thường gắn với việc gian dối và không được Nhà nước và xã hội thừa nhận. Vì vậy, để giải thích khái niệm hàng giả có lẽ phải đặt hàng giả đối lập với hàng thật, đối lập với sản phẩm/hàng hóa được Nhà nước cho phép hay thừa nhận để giải thích, để định nghĩa. Mặt khác, trong tiếng Việt rất khó có thể tìm được từ thay thế cho từ “hàng giả”. Vì vậy, theo Từ điển Giải thích thuật ngữ luật học, khái niệm hàng giả được hiểu là: “Thứ không có giá trị sử dụng của loại hàng mà nó mang tên (hàng giả về nội dung) hoặc tuy có giá trị sử dụng của loại hàng mang tên nhưng mang nhãn hiệu của cơ sở sản xuất khác nhằm lừa dối khách hàng (hàng giả về hình thức)”[12].
Hàng hóa và sản xuất hàng hóa được Nhà nước bảo hộ và khuyến khích sản xuất. Ngay cả khi Nhà nước chưa quy định, bảo hộ thì hàng hóa (sản phẩm được con người tạo ra theo cách tự nhiên để mua bán, trao đổi) cũng đã được xã hội thừa nhận. Hàng giả – vì gắn với sự gian dối, không trung thực nên không được Nhà nước cho phép, bị Nhà nước cấm và xã hội không thừa nhận (ngay cả khi nó có thể dùng, sử dụng được)[13]. Hàng giả – vì không được Nhà nước cho phép, bị Nhà nước cấm và không được xã hội thừa nhận nên nó không có giá trị trao đổi. Nói một cách khác, hàng giả thì không có giá trị. Như vậy, hàng giả không phải là hàng hóa. Khi nói đến hàng hóa thì chỉ có thể là hàng hóa “thật”, hàng hóa “hợp pháp”. Tương tự như vậy, nói đến hàng giả thì chỉ có thể là hàng giả/thứ hàng không hợp pháp, không có giá trị mà không thể nói là “hàng hóa giả” hay không thể giải thích hay định nghĩa “hàng giả là hàng hóa…”. Nếu nhận thức như vậy thì hành vi buôn bán, nhập khẩu thuốc chữa bệnh giả qua biên giới (nêu ở phần trên) sẽ không thể bị nhầm lẫn, không thể bị kết án về tội buôn lậu (vì dấu hiệu cấu thành tội buôn lậu được BLHS quy định là “… hàng hóa…”.
Trong thực tế, (có thể do sự hạn chế bởi ngôn ngữ) mà nhà lập pháp cũng như nhà giải thích pháp luật đã quy định hoặc giải thích không đúng về hàng giả, thậm chí là có sự đồng nhất “hàng giả” với “hàng hóa”. Sự nhầm lẫn này không xảy ra đối với các quy định của BLHS nhưng đã xảy ra trong nhiều văn bản pháp luật khác có liên quan đến quy định của BLHS. Ví dụ, khoản 33 Điều 2 Luật Dược năm 2006 quy định: “Thuốc giả là thuốc được sản xuất thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Không có dược chất, dược liệu; b) Có dược chất không đúng với dược chất ghi trên nhãn…”[14]. Tương tự như vậy, khoản 8 Điều 3 Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định: “Hàng giả” gồm: a) Hàng hóa không có giá trị sử dụng, công dụng;…b) Hàng hóa có hàm lượng định lượng chất chính hoặc tổng các chất dinh dưỡng hoặc đặc tính kỹ thuật cơ bản khác chỉ đạt mức từ 70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng…[15]”. Trong nhiều văn bản pháp luật khác (từ trước đến này) cũng có quy định tương tự[16].
Như vậy, theo cách quy định của các văn bản nêu trên: “thuốc giả là thuốc”, “hàng giả là hàng hóa”…, thì các văn bản này đã “vô tình” coi hàng giả là hàng hóa và điều này dẫn đến những nhận thức không đúng khi áp dụng luật. Chúng tôi cho rằng, trong tiếng Việt rất khó có thể tìm được từ thay thế tương đương cho cụm từ “hàng giả” để định nghĩa hay giải thích khái niệm cho cụm từ hàng giả, nhưng không thể coi/giải thích “hàng giả là hàng hóa” hay “thuốc giả là thuốc”. Có thể coi/quan niệm hay giải thích hàng giả là thứ/những thứ (có đặc điểm cụ thể) như thế nào đó nhưng không thể coi/nói hoặc giải thích hàng giả là hàng hóa hay thuốc giả là thuốc. Việc coi, quy định như vậy đã đánh đồng, làm mờ nhạt, thậm chí làm mất đi bản chất thực và tính trái pháp luật của hàng giả. Bản chất của hàng giả là thứ/những thứ không có giá trị sử dụng của loại hàng mà nó mang tên hoặc tuy có giá trị sử dụng của loại hàng mang tên nhưng mang nhãn hiệu của cơ sở sản xuất khác nhằm lừa dối khách hàng (gian dối, trái pháp luật). Vì vậy, hàng giả (khi bị xử lý dưới góc độ hành chính hoặc hình sự) đều bị tịch thu tiêu hủy (đối với hàng giả gây nguy hại cho xã hội hoặc không có giá trị sự dụng) hoặc (có thể) được cơ quan có thẩm quyền cho phép đưa vào lưu thông khi đáp ứng điều kiện nhất định như “bị buộc loại bỏ các yếu tố vi phạm trên nhãn mác, bao bì hoặc gia công, chế biến lại để hàng hoá đảm bảo tính hợp pháp khi lưu thông hoặc tận dụng làm nguyên liệu”[17]. Ví dụ, đường kính giả có thể được sử dụng làm nguyên liệu cho nhà máy đường, nguyên liệu cho sản xuất bánh kẹo, rượu cồn…; xăng dầu giả nếu không thể chiết xuất, tách bỏ phụ gia, tạp chất thì có thể sử dụng cho các nhà máy sản xuất sơn, chất tẩy rửa… . Trường hợp này hàng giả có thể và chỉ trở thành hàng hóa khi có sự cho phép (quyết định bằng văn bản) của cơ quan có thẩm quyền và khi nó đáp ứng được những điều kiện nhất định (đã nêu trên).
Tóm lại, chúng ta có thể khẳng định: hàng giả không phải là hàng hóa. Trong thực tế chỉ có hàng hóa (sản phẩm được sản xuất ra hợp pháp, được Nhà nước và xã hội thừa nhận) và hàng giả (thứ/những thứ được làm/tạo ra một cách bất hợp pháp, bị Nhà nước cấm). Hàng hóa và hàng giả là hai khái niệm khác nhau. Trong thực tế chỉ có khái niệm hàng hóa và khái niệm hàng giả mà không thể có khái niệm “hàng hóa giả”.
2. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về tội buôn lậu và các tội sản xuất, buôn bán hàng giả
Những phân tích trên đây cho thấy, việc quy định/coi/gọi hàng giả là hàng hóa là hoàn toàn sai. Điều này làm cho khái niệm hàng hóa, hàng giả không phản ánh đúng bản chất của hàng hóa và bản chất của hàng giả. Chính điều này có thể dẫn đến nhận thức và áp dụng pháp luật (trong đó có quy định của BLHS) không được đúng đắn, chính xác trong thực tiễn. Việc nhận thức các quy định của BLHS không đúng dẫn đến việc định tội danh cũng như áp dụng hình phạt đối với người phạm tội không đúng trong thực tiễn. Điều này cũng đặt ra đòi hỏi là các cơ quan có thẩm quyền, trước hết là cơ quan lập pháp và các cơ quan hướng dẫn, giải thích pháp luật cần rà soát các văn bản, hủy bỏ hoặc sửa đổi các quy định không phù hợp để việc áp dụng pháp luật nói chung, áp dụng quy định của BLHS nói riêng được đúng đắn, chính xác. Cụ thể là:
– Thứ nhất, cần rà soát, sửa đổi các văn bản luật trong đó có các quy định (có tính định nghĩa) về “hàng giả”. Cụ thể, cần sửa đổi khoản 33 và khoản 34 Điều 2 BLHS theo hướng không coi thuốc giả không phải là thuốc; dược liệu giả là dược liệu. Theo đó khoảng 33, 34 Điều 2 BLHS được viết lại như sau: “Thuốc giả là thứ/những thứ…” (khoản 33); “Dược liệu giả là thứ/những thứ không có giá trị sử dụng của dược liệu mà nó mang tên…” (khoản 34).
– Thứ hai, cần rà soát, sửa đổi các văn bản hướng dẫn áp dụng luật như nghị định, thông tư… trong đó có các quy định (có tính định nghĩa) về “hàng giả”. Cụ thể, cần sửa đổi Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 và Nghị định số 124/2015/NĐ-CP ngày 19/11/2015 (sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ). Theo đó, thay cụm từ “hàng hóa” tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g khoản 8 Điều bằng cụm từ “thứ/(hoặc) những thứ”.
Ngoài các văn bản này, các văn bản khác có quy định liên quan đến hàng giả, thuốc giả, các sản phẩm giả khác cũng phải được các cơ quan (đã ban hành văn bản) rà soát, sửa đổi để bảo đảm sự chính xác của quy định của pháp luật, qua đó bảo đảm sự nhận thức và áp dụng pháp luật thống nhất trong thực tiễn./.
Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 16 (392), tháng 8/2019
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Ngọc Hòa, Bình luận khoa học BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Phần các tội phạm), Quyển 1, Nxb Tư pháp, Hà Nội 2018.
2. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình trung cấp lý luận chính trị – hành chính: Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về các lĩnh vực của đời sống xã hội, Nxb Lý luận chính trị, 2019.
3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình trung cấp lý luận chính trị – hành chính: Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị, 2019.
4. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác – Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002.
5. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam – Phần các tội phạm, (Quyển 1), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2018.
6. Trường Đại học Luật Hà Nội, Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1999.
7. Viện ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), Nxb Đà Nẵng và TT Từ điển học, năm 2000.
8. Linh An, Chánh án TAND TP.HCM: ‘Vụ VN Pharma như tảng băng chìm chưa nổi lên https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/chong-tham-nhung/chanh-an-tand-tp-hcm-vu-vn-pharma-tang-bang-chim-chua-noi-len-396137.html, truy cập ngày 4/6/2019.
9. Ái Chân, Vụ VN Pharma – Hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra lại, http://www.sggp.org.vn/vu-vn-pharma-huy-toan-bo-ban-an-so-tham-de-dieu-tra-lai-478841.html truy cập 4/6/2019.
10. Lê Đình, Nguyên Tổng giám đốc VN Pharma nhập thuốc trị ung thư giả nhận 12 năm tù http://baophapluat.vn/phap-dinh/nguyen-tong-giam-doc-vn-pharma-nhap-thuoc-tri-ung-thu-gia-nhan-12-nam-tu-351090.html; truy cập 4/6/2019.
11. Bùi Phan, Thay đổi toàn bộ tội danh của 12 bị cáo trong vụ VN Pharma, http://cand.com.vn/Phap-luat/Xung-quanh-vu-VN-Pharma-Nong-Thay-doi-toan-bo-toi-danh-cua-12-bi-cao-544193/; truy cập 4/6/2019.
12. Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2011-2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016 – 2020, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng; http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xii/bao-cao-danh-gia-ket-qua-thuc-hien-nhiem-vu-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-5-nam-2011-2015-va-phuong-huong-1599; truy cập 7/6/2019.
13. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-vii/chien-luoc-on-dinh-va-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-den-nam-2000-1559; truy cập ngày 7/6/2019.
14. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-vii/cuong-linh-xay-dung-dat-nuoc-trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-1558; truy cập ngày 7/6/2019.
15. Phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển KT – XH trong 5 năm 1986 – 1990, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng. http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-vi/phuong-huong-muc-tieu-chu-yeu-phat-trien-kt-xh-trong-5-nam-1986-1990-1492; truy cập ngày 7/6/2019.
[1] Xem thêm:
– Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam – Phần các tội phạm, sđd, tr.282.
– Nguyễn Ngọc Hòa, Bình luận khoa học BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, sđd, tr.388, 389.
[2] Xem: Lê Đình, Nguyên Tổng giám đốc VN Pharma nhập thuốc trị ung thư giả nhận 12 năm tù http://baophapluat.vn/phap-dinh/nguyen-tong-giam-doc-vn-pharma-nhap-thuoc-tri-ung-thu-gia-nhan-12-nam-tu-351090.html (truy cập 4/6/2019).
[3] Xem: Linh An, Chánh án TAND TP. Hồ Chí Minh: Vụ VN Pharma như tảng băng chìm chưa nổi lên https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/chong-tham-nhung/chanh-an-tand-tp-hcm-vu-vn-pharma-tang-bang-chim-chua-noi-len-396137.html (truy cập ngày 4/6/2019).
[4] Xem: Linh An, tlđd.
[5] Xem: Ái Chân, Vụ VN Pharma – Hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra lại, http://www.sggp.org.vn/vu-vn-pharma-huy-toan-bo-ban-an-so-tham-de-dieu-tra-lai-478841.html (truy cập 4/6/2019).
– Bùi Phan, Thay đổi toàn bộ tội danh của 12 bị cáo trong vụ VN Pharma, http://cand.com.vn/Phap-luat/Xung-quanh-vu-VN-Pharma-Nong-Thay-doi-toan-bo-toi-danh-cua-12-bi-cao-544193/ (truy cập 4/6/2019).
[6] Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), Nxb Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học, năm 2000, tr.421.
[7] Xem:
– Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình Kinh tế học chính tri Mác – Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tr. 118.
– Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình trung cấp lý luận chính trị – hành chính: Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị, 2019, tr.131.
[8] Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của hàng hóa có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người (trong việc sử dụng hay tiêu dùng). Giá trị sử dụng là thuộc tính của hàng hóa nhưng không phải là giá trị sử dụng cho người trực tiếp sản xuất ra hàng hóa mà là cho người khác, cho xã hội, thông qua trao đổi, mua bán. Giá trị sử dụng của hàng hóa là vật mang giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi của hàng hóa là một quan hệ về số lượng, một tỷ lệ trao đổi giữa những giá trị sử dụng khác nhau nhưng nó đều có điểm chung là sản phẩm của lao động, được kết tinh từ lao động của con người. Ví dụ, 1m vải = 5kg thóc, tức là người thợ mất thời gian, công sức trong một ngày để sản xuất ra 1m vải và người nông dân mất thời gian, công sức tương tự để sản xuất được 5kg thóc. Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị; giá trị sử dụng là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi. Người sản xuất làm ra hàng hóa để bán, nên mục đích của họ là giá trị chứ không phải là giá trị sử dụng. Họ chú ý đến giá trị sử dụng – làm ra sản phẩm tốt cũng chính là để đạt mục đích là giá trị. Người mua cần giá trị sử dụng, nhưng muốn có giá trị sử dụng thì trước hết họ phải trả giá trị (của hàng hóa) cho người sản xuất ra nó. Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.Chất của giá trị là lao động. Lượng của giá trị là số lượng lao động của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa. Giá trị là cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị. Nhà nước khuyến khích sản xuất hàng hóa là nhằm làm cho hàng hóa sản xuất ngày càng nhiều, có giá trị cao, thỏa mãn ngày càng nhiều các nhu cầu của con người và xã hội.
[9] Xem thêm:
– Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình Kinh tế học chính tri Mác – Lênin, sđd, tr.118- 122.
– Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình trung cấp lý luận chính trị – hành chính: Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sđd, tr.131-133.
[10] Khái niệm hàng giả trong văn bản này cũng không chính xác.
[11] Xem:
– Điều 5 Pháp lệnh trừng trị tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép năm 1982;
– Điều 167 BLHS năm 1985;
– Điều 156, 157, 158 BLHS năm 1999;
– Điều 192, 193, 194, 195 BLHS năm 2015;
– Điều 2 Luật Dược năm 2006;
– Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
[12] Trường Đại học Luật Hà Nội, Từ điển Giải thích thuật ngữ luật học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.57.
[13] Cần chú ý phân biệt hàng giả với những hàng hóa (hàng thật) có tên là “giả” như là răng giả, hoa giả, chân tay giả… Trong thực tế, người ta không thể “làm” được “răng thật”, “chân tay thật” mà chỉ có thể “làm” được răng giả, chân tay giả hoặc chỉ có thể “trồng” được hoa thật mà thôi.
[14] Xem: Khoản 33 Điều 2 Luật Dược năm 2006.
[15] Xem: Khoản 8 Điều 3 Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ (tlđd).
[16] Xem:
– Điều 3 Nghị định số 140-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 25/4/1991 quy định về kiểm tra, xử lý việc sản xuất, buôn bán hàng giả.
– Mục III Thông tư số 10/2000/TTLT-BTM-BTC-BCA-BKHCNMT của Bộ Thương mại, Bộ Tài chính, Bộ Công an và Bộ Khoa học Công nghệ ngày 27/4/2000 hướng dẫn thi hànhChỉ thị số 31/1999/CT-TTg ngày 27/10/1999 của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả.
[17] Xem thêm:
– Khoản 4 các Điều 12, 13, 14, 15 3 Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ (tlđd);
– Tiểu mục 6.3 tại mục V Thông tư số 10/2000/TTLT-BTM-BTC-BCA-BKHCNMT (tlđd);…
Để lại một phản hồi