Góp vốn dưới góc độ quyền tự do kinh doanh

huy-dong-von

Quyền tự do kinh doanh là quyền kinh tế của con người. Quyền tự do kinh doanh của con người được thực hiện thông qua hoạt động góp vốn, huy động vốn, thay đổi vốn và thoái vốn. Vì vậy, để đảm bảo quyền con người nói chung, quyền tự do kinh doanh nói riêng, pháp luật cần tôn trọng quyền tự do góp vốn, huy động vốn, thay đổi vốn và thoái vốn. Bài viết tiếp cận những quyền nêu trên dưới góc độ so sánh để thấy được sự phát triển, tương thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật các quốc gia trên thế giới; chỉ ra những điểm bất cập trong chế định vốn kinh doanh của Việt Nam và đưa ra những khuyến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm bảo vệ quyền con người nói chung và quyền tự do kinh doanh nói riêng.

 

Abstract: Business freedom is an economic right of human beings. In particular, it is realized through activities of contributions, capital mobilization, change or divestment in projects. Therefore, to ensure the human rights generally and the business freedom particularly, the law should respect the freedom in contribution, mobilization, change, and divestment of capital. This article is based on the approach of above issues under the comparative perspective to understand the development and compatibility between Vietnamese laws and the law of countries from all over the world. Besides, the article also provides the inadequate issues in Vietnam’s provisions on business capital and also recommended solutions for further improvements of the legal environment for protecting human rights in general and business freedom in particular. 

 

1. Quyền tự do góp vốn

Góp vốn xét từ phương diện kinh tế, là việc tạo ra tài sản cho công ty, nhằm đảm bảo những chi phí trong hoạt động của công ty và đảm bảo quyền lợi của các chủ nợ. Xét từ phương diện pháp lý, góp vốn là hành vi chuyển giao tài sản hay đưa tài sản vào sử dụng trong hoạt động kinh doanh để đổi lấy quyền lợi từ công ty[1], theo đó, người góp vốn không nhận được bất kỳ một khoản tiền nào từ việc chuyển giao vốn vào công ty nhưng nhận được giá trị khác là quyền lợi trong công ty. Đảm bảo quyền tự do góp vốn là đảm bảo được chủ thể kinh doanh có cơ hội tiếp cận và tìm kiếm quyền lợi trong công ty – nơi chủ thể đó góp vốn. Để đánh giá được quyền tự do góp vốn vào doanh nghiệp trong pháp luật của một quốc gia thì phải đánh giá được sự thừa nhận tính đa dạng của các loại tài sản góp vốn và tính đơn giản về điều kiện góp vốn.

Khi tiếp cận về vốn, hình thức của vốn đa dạng và thể hiện ở 4 loại như sau: vốn kinh tế (tiền và tài sản); vốn văn hoá (hàng hóa và dịch vụ văn hoá, cũng bao gồm các chứng chỉ giáo dục); vốn xã hội (mạng lưới và người quen) và vốn biểu tượng (đề cập đến tính hợp pháp)[2]. Tuy vậy, không phải loại “vốn” nào cũng được thừa nhận là vốn góp vào doanh nghiệp. Trên thế giới, pháp luật nhiều nước ghi nhận các loại “tài sản” góp vốn gồm: tiền, hiện vật, đất đai, quyền hưởng dụng, quyền sở hữu trí tuệ, trí tuệ, công sức và sản nghiệp thương mại[3].

Điều 35 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định về tài sản góp vốn: “1. Tài sản góp vốn có thể là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam…”.

Đối với quyền góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài, Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 hướng dẫn một số điều của Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã chính thức bỏ quy định hạn chế tỷ lệ góp vốn và mua cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài. Đây là một bước tiến rất lớn trong việc đảm bảo sự bình đẳng giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài; đồng thời, có thể thấy, quyền tự do góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài được mở rộng hơn rất nhiều so với giai đoạn trước đây.

Trong quá trình phát triển, pháp luật Việt Nam có sự thay đổi quy định về tài sản góp vốn, điều kiện góp vốn để tương đồng với pháp luật của các quốc gia trên thế giới và phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Sự thay đổi của pháp luật có tác động tích cực tới số lượng doanh nghiệp được thành lập mới và nguồn vốn góp vào doanh nghiệp. Điều đó thể hiện rõ thông qua bảng thống kê về doanh nghiệp Việt Nam 15 năm đầu thế kỷ XXI sau:

Bảng 1.  Thống kê nguồn vốn các doanh nghiệp tại thời điểm 31/12

Năm Tổng số doanh nghiệp

(Doanh nghiệp)

Tổng số doanh nghiệp FDI

(Doanh nghiệp)

Nguồn vốn chủ sở hữu

(Tỷ đồng)

Nguồn vốn chủ sở hữu doanh nghiệp FDI

(Tỷ đồng)

2000 39.069 1.528 370.660 108.737
2005 106.616 3.697 806.817 225.935
2010 279.360 7.248 3.750.995 681.071
20115 442.485 11.940 7.399.890 1.669.604

Nguồn: Tổng cục Thống kê[4]

Từ số liệu thống kê tại Bảng 1 cho thấy, quyền tự do góp vốn đã tác động làm tăng số lượng doanh nghiệp thành lập mới và tăng vốn góp vào doanh nghiệp. Đặc biệt, sự gia tăng đáng kể vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong vòng 15 năm gần đây. Tuy nhiên, nhằm đảm bảo quyền tự do góp vốn của chủ thể kinh doanh chúng tôi cho rằng, pháp luật Việt Nam cần có một số chỉnh sửa, bổ sung sau đây:

Thứ nhất, được góp vốn bằng công sức lao động: Pháp luật Việt Nam không ghi nhận hình thức góp vốn bằng “tri thức” và “công sức lao động”. Tuy nhiên, kinh nghiệm của một số nước cho thấy, phần vốn góp bằng công sức lao động không được tính vào vốn của công ty, nhưng người góp vốn bằng công sức lao động được nhận cổ phần của công ty, có quyền chia lãi và tài sản có, đồng thời cũng phải chịu lỗ[5]. Sự thừa nhận góp vốn bằng sức lao động nhưng áp dụng một cách uyển chuyển, khéo léo không tính vào vốn của công ty nhưng là cơ sở để chia lãi và chịu lỗ. Quy định này làm tăng cơ hội tham gia vào doanh nghiệp và tìm kiếm lợi nhuận của các chủ thể. Con người có thể góp công sức lao động của mình vào công ty với tư cách chủ thể thành lập thay vì là người làm thuê. Vì vậy, pháp luật Việt Nam nên thừa nhận hình thức góp vốn này.

Thứ hai, được góp vốn bằng tri thức: Hiện nay, thế giới đang hướng tới phát triển nền kinh tế tri thức. Tri thức không còn là khái niệm mơ hồ mà nó đã trở thành một tài sản quý của mỗi cá nhân, của tổ chức. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) đã ghi nhận: “Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu nhất của sự tăng trưởng, tạo ra của cải, tạo ra việc làm trong tất cả các ngành kinh tế”[6]. Vì vậy, để tạo động lực phát triển kinh tế và tôn trọng quyền con người, pháp luật Việt Nam cần thừa nhận hình thức góp vốn bằng tri thức.

Thứ ba, quy định về tài sản cần mang tính khái quát: Tài sản là một tập hợp các quyền trên vật có hiệu lực loại trừ quyền của chủ thể khác[7]. Dù tiếp cận tài sản dưới góc độ là động sản và bất động sản hay là quyền của chủ thể đối với vật thì cách tiếp cận của các quốc gia là khái quát chứ không liệt kê cụ thể. Cách quy định này nhằm bảo đảm sự ổn định, tránh để xảy ra thiếu sót. Tuy nhiên, quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về tài sản được thiết kế theo phương pháp liệt kê các loại tài sản. Phương pháp này vô hình chung bỏ sót những “tài sản vô hình” như tri thức, sức lao động, mối quan hệ, danh tiếng,… Để tránh những bất cập này, chúng tôi cho rằng, quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam về tài sản nên được sửa đổi theo hướng khái quát hơn.

2. Quyền tự do huy động vốn và thay đổi vốn điều lệ

Quyền huy động vốn và thay đổi vốn điều lệ là quyền của doanh nghiệp. Thông qua quyền tự do huy động vốn và thay đổi vốn điều lệ của doanh nghiệp, các cá nhân đã gián tiếp thực hiện quyền con người của mình. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014: (i) Doanh nghiệp phát hành cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp không cần phải “xin phép”[8]; (ii) Các loại hình doanh nghiệp dễ dàng huy động vốn theo nhiều hình thức khác nhau[9]; (iii) Doanh nghiệp được quyền tăng, giảm vốn điều lệ theo quy định[10]. Quy định này cho thấy, quyền huy động vốn và quyền thay đổi vốn điều lệ của doanh nghiệp khá dễ dàng.

Nhìn chung, các quốc gia đều ghi nhận quyền huy động vốn và tăng vốn điều lệ thông qua việc góp thêm vốn, kết nạp thành viên mới hoặc phát hành cổ phiếu ra công chúng. Những quy định đó tương đồng với pháp luật Việt Nam. Riêng với quy định về giảm vốn điều lệ, quy định của pháp luật một số quốc gia có những điểm khác biệt nhất định. Có thể lấy ví dụ về quy định của pháp luật Singapore. Theo quy định của Luật Công ty Singapore, một công ty có thể giảm vốn của mình theo các hình thức sau đây:(i) Trường hợp giảm vốn: chấm dứt hoặc giảm bớt khoản nợ đối với phần vốn góp chưa được thanh toán; huỷ bỏ vốn đã góp nhưng bị mất hoặc không còn trong tài sản có sẵn; trả phần vốn góp cho cổ đông mà phần vốn được hoàn trả là phần cao hơn mức công ty cần[11]; (ii) Điều kiện giảm vốn: công ty đại chúng (pulic company) và công ty tư nhân (private company) để được giảm vốn điều lệ thì công ty phải đáp ứng yêu cầu “khi giảm vốn điều lệ vẫn phải đảm bảo khả năng thanh toán và công khai thông tin theo quy định của pháp luật”[12]. Riêng với công ty trách nhiệm vô hạn (unlimited company), việc giảm vốn điều lệ không bị ngăn cản[13].

Như vậy, quy định về giảm vốn điều lệ của pháp luật doanh nghiệp Việt Nam và Singapore có sự khác biệt sau:

Thứ nhất, pháp luật về doanh nghiệp của Việt Nam quy định giảm vốn điều lệ theo hình thức mua lại vốn góp của các thành viên hoặc cổ đông, thông qua hình thức giảm vốn này, thành viên hoặc cổ đông bảo vệ quyền lợi của mình khi yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp[14]. Trong khi đó, pháp luật về doanh nghiệp Singapore không quy định điều này;

Thứ hai, pháp luật về doanh nghiệp của Singapore chỉ nêu việc hoàn trả vốn góp chung chung (không quy định tỷ lệ) và đảm bảo điều kiện còn khả năng thanh toán sau khi hoàn trả vốn góp. Với quy định này, việc hoàn trả vốn góp theo Luật Công ty của Singapore dễ dàng hơn so với Luật Doanh nghiệp Việt Nam;

Thứ ba, pháp luật về doanh nghiệp Singapore ghi nhận trường hợp giảm vốn do việc mất hoặc không còn tài sản đã góp vào công ty thì công ty có thể điều chỉnh giảm vốn điều lệ nhưng pháp luật doanh nghiệp Việt Nam không ghi nhận trường hợp này. Đây được xem là điểm thiếu sót của pháp luật doanh nghiệp Việt Nam và làm giảm cơ hội của doanh nghiệp khi muốn giảm vốn điều lệ.

Trên cơ sở những phân tích so sánh nêu trên, chúng tôi cho rằng, để đảm bảo quyền tự do huy động vốn và thay đổi vốn điều lệ, pháp luật về doanh nghiệp của Việt Nam cần được hoàn thiện theo hướng sau:

Thứ nhất, đối với công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) 2 thành viên và công ty cổ phần (CTCP): bổ sung quy định được giảm vốn điều lệ khi công ty hoàn trả vốn góp cho thành viên hoặc cổ đông nếu phần vốn đó vượt quá nhu cầu của công ty.

Thứ hai, đối với CTCP: bổ sung quy định được giảm vốn điều lệ trong các trường hợp như:  (1) Giảm hoặc loại bỏ vốn đại diện bởi cổ phần mà cổ phiếu không cho lưu hành nữa; (2) Mua hoặc mua lại cổ phiếu đang lưu hành hoặc vốn đại diện cho cổ phần đã được mua hoặc mua lại, hoặc phần vốn chưa được phân bổ; (3) Áp dụng chuyển đổi hoặc trao đổi cổ phiếu hoặc vốn đại diện cho cổ phần hoặc cả hai dẫn đến tổng số vốn lớn hơn tổng mệnh giá cổ phần; (4) Bằng cách chuyển sang phần dư (i) một phần hoặc toàn bộ vốn không được đại diện bởi bất kỳ loại vốn cổ phần nào; (ii) một phần hoặc toàn bộ số vốn được đại diện bởi cổ phần phát hành với mệnh giá nhất định, vốn vượt quá tổng mệnh giá của cổ phần đó; Hoặc (iii) một số vốn được đại diện bởi cổ phần phát hành của phần vốn cổ phần không có mệnh giá; (5) Các trường hợp khác được pháp luật quy định.

Thứ ba, đối với CTCP và công ty TNHH 2 thành viên trở lên: bỏ quy định “giảm vốn điều lệ bằng cách hoàn trả lại vốn góp sau hơn 2 năm hoạt động kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp”. Thay vào đó, doanh nghiệp giảm vốn điều lệ khi doanh nghiệp hoàn trả lại phần vốn góp của các thành viên hoặc cổ đông theo tỷ lệ vốn góp mà họ sở hữu nhưng doanh nghiệp vẫn đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ và nghĩa vụ tài chính khác sau khi giảm vốn điều lệ.

Thứ tư, đối với công ty TNHH 1 thành viên: bỏ quy định “giảm vốn điều lệ bằng cách rút lại vốn góp sau hơn 2 năm hoạt động kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp”. Thay vào đó, doanh nghiệp giảm vốn điều lệ khi chủ sở hữu doanh nghiệp hoàn rút vốn một phần góp mà doanh nghiệp vẫn đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ và nghĩa vụ tài chính khác sau khi giảm vốn điều lệ.

3. Quyền tự do định đoạt lợi nhuận và thoái vốn

Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới đều tôn trọng và ghi nhận quyền tự do thoái vốn của các chủ thể khi tham gia hoạt động kinh doanh. Theo đó, các chủ thể có quyền rút vốn thông qua các phương thức sau: chuyền nhượng vốn góp, chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp để thu hồi vốn và rút vốn theo quy định của pháp luật. Nhìn chung, quyền thoái vốn của con người khỏi doanh nghiệp có sự tương đồng giữa pháp luật các nước nên quyền này là quyền phổ quát trên phạm vi toàn cầu.

Đối với quyền chuyển lợi nhuận về nước, Điều 11 Luật Đầu tư Việt Nam năm 2014 quy định: “Sau khi thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam theo quy định của pháp luật, nhà đầu tư nước ngoài được chuyển ra nước ngoài các tài sản sau đây: 1. Vốn đầu tư, các khoản thanh lý đầu tư; 2. Thu nhập từ hoạt động đầu tư kinh doanh; 3. Tiền và tài sản khác thuộc sở hữu hợp pháp của nhà đầu tư”. Đến thời điểm này, nhà đầu tư nước ngoài không phải nộp khoản “thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài”. Rõ ràng, các nhà đầu tư dễ dàng chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, đồng nghĩa với việc quyền tự do kinh doanh được tôn trọng và trở nên phổ quát trong pháp luật đầu tư Việt Nam.

Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam còn có nhiều quy định nhằm đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng như nhà đầu tư Việt Nam ở nước ngoài liên quan tới thu nhập của họ. Tính đến ngày 10/8/2016, Việt Nam đã ký Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế thu nhập với 75 nước/vùng lãnh thổ trên thế giới[15]. Các nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng chuyển lợi nhuận về nước và đảm bảo tối đa lợi nhuận thu được vì không phải chịu những khoản thuế bất hợp lý hoặc bị đánh thuế nhiều lần cho cùng một nguồn thu ở các quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau.

Bên cạnh quyền tự do chuyển lợi nhuận về nước, nhà đầu tư tại Việt Nam còn có quyền tự do thoái vốn. Nhà đầu tư có quyền thoái vốn thông qua một số hình thức sau: chuyển nhượng vốn góp hoặc cổ phần; rút vốn khỏi doanh nghiệp; yêu cầu doanh nghiệp mua lại vốn góp; chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp để thu hồi vốn.

Các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận các hình thức thoái vốn giống với quy định của pháp luật Việt Nam. Để đánh giá được mức độ tự do, dễ dàng của hoạt động thoái vốn của nhà đầu tư cần phải xem xét đến chính sách thuế của các quốc gia liên quan tới hoạt động này. Một trong những chính sách thuế liên quan tới quyền tự do thoái vốn của nhà đầu tư là thuế thặng dư vốn (capital gain tax)[16].

Quy định về thuế thặng dư vốn của các quốc gia là khác nhau nên có ảnh hưởng khác nhau tới hoạt động thoái vốn của nhà đầu tư. Trên thế giới hiện nay, giống với Việt Nam, có khá nhiều nước không đánh thuế thặng dư vốn như Singapore, Bỉ, Thụy Sĩ,… Tại các quốc gia này, nhà đầu tư không bị đánh thuế thặng dư vốn nên việc thoái vốn diễn ra thuận lợi và quyền lợi của nhà đầu tư hoàn toàn được đảm bảo. Tuy vậy, một số quốc gia có quy định khá rõ về áp thuế đối với thặng dư vốn. Theo pháp luật Hoa Kỳ, Nhà nước sẽ đánh thuế dựa trên mức tăng lên của vốn, loại vốn và đối chủ sở hữu vốn mà có thuế suất khác nhau trong các thời điểm khác nhau[17]. Theo pháp luật Pháp, Nhà nước áp thuế đối với thặng dư vốn với mức thuế suất khác nhau cho các đối tượng khác nhau là công dân Pháp, công dân thuộc EU và các quốc gia khác[18]. Mức thuế suất thặng dư vốn theo pháp luật thuế của Pháp có thể thay đổi theo thời gian nhằm tăng nguồn thu và điều tiết nền kinh tế.

Việt Nam không đánh thuế thặng dư vốn. Theo chúng tôi, việc không áp dụng loại thuế này đã giúp các nhà đầu tư có lợi ích rất lớn, nghĩa là các nhà đầu tư đầu tư tại Việt Nam khi thoái vốn và giá trị vốn góp tăng họ không phải nộp thuế cho khoản thặng dư vốn này. Vì vậy, các nhà đầu tư rất dễ dàng thoái vốn và không phải nộp thuế. Quy định này giúp cho các nhà đầu tư tự do trong hoạt động thoái vốn nói riêng và tự do kinh doanh nói chung.

Hiện nay, một số nước như Pháp, Hoa Kỳ đều áp dụng thuế thặng dư vốn. Việc áp dụng loại thuế này sẽ khiến các nhà đầu tư phải cân nhắc kỹ lưỡng trước khi thoái vốn, bởi lẽ, khi thoái vốn, họ phải nộp một khoản tiền thuế thặng dư vốn cho Nhà nước. Ngày nay, tư tưởng mới tập trung vào ba điểm mấu chốt trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp với quyền con người đó là: trách nhiệm kinh tế, trách nhiệm xã hội và trách nhiệm với môi trường[19]. Các doanh nghiệp trong hoạt động của mình luôn phải có trách nhiệm với xã hội. Chúng tôi cho rằng, phổ quát hóa quyền tự do kinh doanh nói chung và quyền tự do thoái vốn nói riêng không phải là chỉ đưa ra những quy định để tuyệt đối hóa quyền của các chủ thể kinh doanh, mà còn phải đảm bảo quyền lợi của các chủ thể khác, đảm bảo lợi ích của cộng đồng và ràng buộc trách nhiệm của chủ thể kinh doanh với xã hội. Vì vậy, trước mắt Việt Nam có thể chưa quy định về thuế thặng dư vốn để thu hút các nhà đầu tư nhằm phát triển kinh tế. Nhưng về lâu dài, đến một thời điểm phù hợp, Việt Nam cần áp dụng thuế thặng dư vốn. Thuế suất của loại thuế thặng dư vốn ở mỗi thời điểm khác nhau sẽ áp dụng mức thuế suất khác nhau để quyền lợi của nhà đầu tư vẫn được đảm bảo nhưng vẫn hài hòa với lợi ích của cộng đồng./.

 

Tài liệu tham khảo:

  1. 8 Delware Code (2016)
  2. 2015 US Code, Title 26 – Internal Revenue Code, Subtitle A – Income Taxes, Chapter 1 – Normal Taxes and Surtaxes, Subchapter P – Capital Gains and Losses (Sections 1201 – 1298)
  3. Louis Bach (1999), Droit Civil, Tome 1, 13e Edition, Sirey
  4. Bộ luật Dân sự năm 2015.
  5. Civil Code of France.
  6. Company Act of Singapore.
  7. Nguyễn Quang Duy (2017), “Hoàn thiện pháp luật về góp vốn bằng tài sản vô hình ở Việt NamTạp chí Dân chủ và pháp luật (Online), Truy cập ngày 10/09/2017 http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/xay-dung-phap-luat.aspx?ItemID=328
  8. Đặng Hữu (2004), Kinh tế tri thức – Thời cơ và sự thách thức đối với sự phát triển của Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
  9. Doreen McBarnet(2005), “Human Rights, Corporate Responsibility and the New Accountability”, Human rights and the moral responsibilities corporate and puclic sector organizations, Kluwer Academic Publishers, New York.
  10. Nguyễn Đức Minh (2010), “Quyền tự do kinh doanh của công dân và nhà nước thuế”,Quyền con người – Tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học (Võ Khánh Vinh Chủ biên), Nxb. Khoa học Xã hội.
  11. Nhà pháp luật Việt – Pháp (2009),Từ điển thuật ngữ pháp luật Pháp – Việt, Nxb. Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
  12. Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01/ 10 / 2010 hướng dẫn một số điều Luật Doanh nghiệp năm 2005.
  13. Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 hướng dẫn một số điều của Luật Doanh nghiệp năm 2014.
  14. Nguyễn Thị Lan (2016), “Chính sách ưu đãi thuế đối với hoạt động đầu tư nước ngoài”, Tạp chí Tài chính, kỳ 2 số 4/2016.
  15. Luật Chứng khoán Việt Nam năm 2006.
  16. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán Việt Nam năm 2010.
  17. Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2014.
  18. Moore Stephens (2016),Doing Business in France 2016, London.
  19. Navarro, Z. (2006), “In search of a cultural interpretation of power: the contribution of Pierre Bourdieu”, IDS bulletin, 37(6).

Bài viết được đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 16 kỳ 2 tháng 8/2018

Nguyễn Thị Thu Trang, ThS. Trường Đại học Kinh tế – Luật

 


[1]Xem Nguyễn Như Phát (2009), Quyền sở hữu cá nhân – Cội nguồn của tự do kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, Quyền con người: tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã hội (Võ Khánh Vinh Chủ biên), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 88.

[2]Navarro, Z. (2006), “In search of a cultural interpretation of power: the contribution of Pierre Bourdieu”, IDS bulletin, 37(6), P.17.

[3] Xem Phạm Tuấn Anh (2009), Góp vốn thành lập công ty theo pháp luật Việt Nam, Luận văn ThS, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.34-62.

[4] Tổng cục Thống kê (2017), Doanh nghiệp Việt Nam 15 năm đầu thế kỷ (2000-2014), Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr.171.

[5]Xem Article 1843-2 Civil Code of France.

[6] Đặng Hữu (2004), Kinh tế tri thức – Thời cơ và sự thách thức đối với sự phát triển của Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr.98.

[7] Ngô Huy Cương (2003), Tổng quan về tài sản, Tạp chí Khoa học kinh tế – luật”, ĐHQGHN, Số 3/2003.

[8]Xem Khoản 3, Điều 110 và Điều 127 Luật Doanh nghiệp năm 2014; Nghị định số 90/2011/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp; Luật Chứng khoán năm 2006; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán năm 2010; Nghị định số 58/2012/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán; và Nghị định số 60/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 58/2012/NĐ-CP.

[9]Xem Điều 68, 87 và Khoản 5, Điều 111 Luật Doanh nghiệp năm 2014.

[10]Xem Điều 68, 87, 181và Khoản 5, Điều 111 Luật Doanh nghiệp năm 2014.

[11] Article 78A(1) Company Act of Singapore.

[12]Xem  Article 78B(1) và 78C(1) Company Act of Singapore .

[13] Xem Article 78A(5) Company Act of Singapore.

[14]Xem Điều 52 và Điều 129 Luật Doanh nghiệp năm 2014.

[15]Nguồn Tổng cục Thống kê – Bộ Tài chính.

[16]Thuế thặng dư vốn là môt loại thuế đánh trên lượng vốn do cá nhân hay doanh nghiệp thu được. Lượng vốn này là khoản lãi mà nhà đầu tư thu được từ việc bán các tài sản vốn tại một mức giá cao hơn mức giá khi họ mua tài sản này.

[17] Quy định chi tiết tại 2015 US Code, Title 26 – Internal Revenue Code, Subtitle A – Income Taxes, Chapter 1 – Normal Taxes and Surtaxes, Subchapter P – Capital Gains and Losses (Sections 1201 – 1298).

[18]Tham khảo Moore Stephens(2016),Doing Business in France 2016, London, P.21-22.

[19] Doreen McBarnet(2005), “Human Rights, Corporate Responsibility and the New Accountability”, Human rights and the moral responsibilities corporate and puclic sector organizations, Kluwer Academic Publishers, New York, P.63.

đánh giá bài viết

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền