Điểm mới về quyền nhân thân trong bộ luật dân sự 2015 so với 2005

Chuyên mụcLuật dân sự, Thảo luận pháp luật Quyền nhân thân

Ngày 24/11/2015, Bộ luật dân sự được thông qua với 86.84% tổng số phiếu tán thành, trong đó gồm 6 phần, 27 chương và 689 Điều. Bộ luật dân sự năm 2015 đã giảm 88 Điều so với Bộ luật dân sự năm 2005.

 

Quyền nhân thân của cá nhân đã được cụ thể hóa đầy đủ nhằm xác định tư cách chủ thể của cá nhân trong quan hệ dân sự được quy định trong Hiến pháp và Điều ước Quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Trong phạm vi bài viết này, tôi đề cập đến các điểm mới liên quan đến quyền nhân thân của cá nhân trong Bộ luật dân sự năm 2015 so với Bộ luật dân sự năm 2005. Cụ thể:

 

1. Bổ sung trường hợp loại trừ năng lực hành vi dân sự đầy đủ

Trước đây, người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự. Hiện nay, Khoản 2 Điều 20 Bộ luật dân sự năm 2015 bổ sung thêm trường hợp người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

 

2. Không còn khái niệm không có năng lực hành vi dân sự

Bộ luật dân sự (BLDS) 2005 quy định về trường hợp không có năng lực hành vi dân sự. Tại Điều 21 quy định Người chưa đủ sáu tuổi không có năng lực hành vi dân sự. Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.

Khoản 2 Điều 21 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Người chưa đủ 6 tuổi được xếp vào chung nhóm người chưa thành niên, và giữ nguyên quy định về giao dịch dân sự đối với đối tượng này. Đồng thời, sửa đổi quy định về giao dịch dân sự đối với người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi”.

Khoản 4 Điều 21 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý”.

Tức BLDS 2015 thì không còn quy định về độ tuổi không có năng lực hành vi dân sự nữa. Căn cứ khoản 2, 4, Điều 21 BLDS 2015 thì người chưa đủ 6 tuổi được xếp vào chung nhóm người chưa thành niên và vẫn giữ nguyên quy định về giao dịch dân sự đối với đối tượng này.

 

3. Kết luận giám định mất năng lực hành vi dân sự phải là kết luận giám định pháp y tâm thần

Khoản 1 Điều 22 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định thêm các cụm từ “cơ quan, tổ chức hữu quan”, “pháp y tâm thần”vào quy định về mất năng lực hành vi dân sự: “Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.

Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự  tthì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự ”.

 

4. Quy định về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Bên cạnh trường hợp hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất năng lực hành vi dân sự như Bộ luật dân sự năm 2005 đã quy định, Điều 23 Bộ luật dân sự năm 2015 bổ sung thêm quy định về “Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”. Do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.

 

5. Bổ sung quy định quyền nhân thân với các đối tượng khiếm khuyết năng lực hành vi dân sự

Khoản 2 Điều 25 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:

– Việc xác lập, thực hiện quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi phải được người đại diện theo pháp luật của người này đồng ý theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, luật khác có liên quan hoặc theo quyết định của Tòa án.

– Việc xác lập, thực hiện quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân của người bị tuyên bố mất tích, người đã chết phải được sự đồng ý của vợ, chồng hoặc con thành niên của người đó; trường hợp không có những người này thì phải được sự đồng ý của cha, mẹ của người bị tuyên bố mất tích, người đã chết, trừ trường hợp Bộ luật dân sự 2015, luật khác có liên quan quy định khác.

 

6. Quy định cụ thể về quyền có họ, tên

Ngoài các quy định đã được nêu tại Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 26 Bộ luật dân sự năm 2015 bổ sung một số nội dung sau một cách chi tiết, cụ thể:
– Họ của cá nhân được xác định là họ của cha đẻ hoặc họ của mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha mẹ; nếu không có thỏa thuận thì họ của con được xác định theo tập quán.
– Trường hợp chưa xác định được cha đẻ thì họ của con được xác định theo họ của mẹ đẻ.
– Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và được nhận làm con nuôi thì họ của trẻ em được xác định theo họ của cha nuôi hoặc họ của mẹ nuôi theo thỏa thuận của cha mẹ nuôi.
– Trường hợp chỉ có cha nuôi hoặc mẹ nuôi thì họ của trẻ em được xác định theo họ của người đó.
– Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và chưa được nhận làm con nuôi thì họ của trẻ em được xác định theo đề nghị của người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng trẻ em đó hoặc theođề nghị của người có yêu cầu đăng ký khai sinh cho trẻ em, nếu trẻ em đang được người đó tạm thời nuôi dưỡng.
– Cha đẻ, mẹ đẻ được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2015 là cha, mẹ được xác định dựa trên sự kiện sinh đẻ; người nhờ mang thai hộ với người được sinh ra từ việc mang thai hộ theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
– Tên của công dân Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc khác của Việt Nam; không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là chữ.
– Việc đặt tên bị hạn chế trong trường hợp xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặctrái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự đã nêu trên.

 

7. Về quyền thay đổi họ và thay đổi tên

Điều 27 và Điều 28 Bộ luật dân sự năm 2015 đã tách riêng quyền thay đổi họ và quyền thay đổi tên thành 02 Điều, đồng thời, cụ thể từng trường hợp được phép thay đổi họ, trường hợp được phép thay đổi tên.

 

1. Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay đổi họ trong trường hợp sau:
– Thay đổi họ cho con đẻ từ họ của cha đẻ sang họ của mẹ đẻ hoặc ngược lại.
– Thay đổi họ cho con nuôi từ họ của cha đẻ hoặc mẹ đẻ sang họ của cha nuôi hoặc họ của mẹ nuôi theo yêu cầu của cha nuôi, mẹ nuôi.
– Khi người con nuôi thôi làm con nuôi và người này hoặc cha đẻ, mẹ đẻ yêu cầu lấy lại họ cho người đó theo họ của cha đẻ hoặc mẹ đẻ.
– Thay đổi họ cho con theo yêu cầu của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc của con khi xác định cha, mẹ cho con.
– Thay đổi họ của người bị lưu lạc đã tìm ra nguồn gốc huyết thống của mình.
– Thay đổi họ theo họ của vợ, họ của chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài để phù hợp với pháp luật của nước mà vợ, chồng người nước ngoài là công dân hoặc lấy lại họ trước khi thay đổi.
– Thay đổi họ của con khi cha, mẹ thay đổi họ.
– Trường hợp khác do pháp luật về hộ tịch quy định.

 

2. Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay đổi tên trong trường hợp sau:
– Theo yêu cầu của người có tên mà việc sử dụng tên đó gây nhầm lẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia đình, đến danh dự, quyền, lợi ích hợp pháp của người đó.
– Theo yêu cầu của cha nuôi, mẹ nuôi về việc thay đổi tên cho con nuôi hoặc khi người con nuôi thôi làm con nuôi và người này hoặc cha đẻ, mẹ đẻ yêu cầu lấy lại tên mà cha đẻ, mẹ đẻ đã đặt.
– Theo yêu cầu của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc người con khi xác định cha, mẹ cho con.
– Thay đổi tên của người bị lưu lạc đã tìm ra nguồn gốc huyết thống của mình.
– Thay đổi tên của vợ, chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài để phù hợp với pháp luật của nước mà vợ, chồng người nước ngoài là công dân hoặc lấy lại tên trước khi thay đổi.
– Thay đổi tên của người đã xác định lại giới tính, người đã chuyển đổi giới tính.
– Trường hợp khác do pháp luật về hộ tịch quy định.

 

8. Về quyền xác định, xác định lại dân tộc

Điều 29 Bộ luật dân sự năm 2015 đã ưu tiên nguyên tắc thỏa thuận khi xác định dân tộc của con trong trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ thuộc 02 dân tộc khác nhau. Nếu không thỏa thuận thì xác định theo tập quán. Trường hợp tập quán khác nhau thì dân tộc của con được xác định theo tập quán của dân tộc ít người hơn.
– Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và được nhận làm con nuôi thì được xác định dân tộc theo dân tộc của cha nuôi hoặc mẹ nuôi theo thỏa thuận của cha mẹ nuôi. Trường hợp chỉ có cha nuôi hoặc mẹ nuôi thì dân tộc của trẻ em được xác định theo dân tộc của người đó.
– Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và chưa được nhận làm con nuôi thì được xác định dân tộc theo đề nghị của người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng trẻ em đó hoặc theo đề nghịcủa người đang tạm thời nuôi dưỡng trẻ em vào thời điểm đăng ký khai sinh cho trẻ em.
– Cá nhân có quyền xác định, xác định lại dân tộc của mình.
– Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định lại dân tộc trong trường hợp: xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ nếu cha đẻ, mẹ đẻ thuộc 02 dân tộc khác nhau; xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ nếu con nuôi đã xác định được cha đẻ, mẹ đẻ của mình.

 

9. Bổ sung trường hợp khai sinh, khai tử cho trẻ chết sau khi sinh

Điều 30 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định bổ sung trường hợp khai sinh, khai tử cho trẻ chết sau khi sinh: Trẻ em sinh ra mà sống được từ hai mươi bốn giờ trở lên mới chết thì phải được khai sinh và khai tử; nếu sinh ra mà sống dưới hai mươi bốn giờ thì không phải khai sinh và khai tử, trừ trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ có yêu cầu.

 

10. Bổ sung quy định quyền đối với quốc tịch

Ngoài các quy định tại Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 31 Bộ luật dân sự năm 2015 bổ sung quy định: “Quyền của người không quốc tịch cư trú, sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam được bảo đảm theo luật”.

 

11. Quy địnhcác trường hợp sử dụng hình ảnh của người khác mà không cần có sự đồng ý của người đó

Điều 32 Bộ luật dân sự năm năm 2015 quy định các trường hợp sử dụng hình ảnh của người khác mà không cần có sự đồng ý của người đó:

– Việc sử dụng hình ảnh trong trường hợp sau không cần có sự đồng ý của người có hình ảnh hoặc người đại diện theo pháp luật của họ như: Hình ảnh được sử dụng vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng; Hình ảnh được sử dụng từ các hoạt động công cộng, bao gồm hội nghị, hội thảo, hoạt động thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật và hoạt động công cộng khác mà không làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh;
– Ngoài ra, việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho người có hình ảnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Việc sử dụng hình ảnh mà vi phạm quy định thì người có hình ảnh có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại và áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định pháp luật.

 

12. Thừa nhận quyền sống bên cạnh quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể

Điều 33 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Cá nhân có quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, thân thể, quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe”. Đồng thời nhấn mạnh rằng: “Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”.
– Thêm sự lựa chọn về trách nhiệm cho người phát hiện người bị tai nạn, bệnh tật mà tính mạng bị đe dọa: “hoặc tự mình thực hiện hoặc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có điều kiện cần thiết đưa ngay đến cơ sở khám chữa bệnh gần nhất”.
Bên cạnh sự đồng ý của người được thực hiện gây mê, mổ, cắt bỏ, cấy ghép mô, bộ phận cơ thể người; thực hiện kỹ thuật, phương pháp khám, chữa bệnh mới trên cơ thể người; thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất cứ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người thì yêu cầu việc thực hiện này phải do tổ chức có thẩm quyền thực hiện.
– Thay cụm từ “người đứng đầu cơ sở y tế” thành cụm từ “người có thẩm quyền của cơ sở khám, chữa bệnh”“Trường hợp người được thử nghiệm là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc là bệnh nhân bất tỉnh thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con thành niên hoặc người giám hộ của người đó đồng ý.
Trường hợp có nguy cơ đe dọa đến tính mạng của bệnh nhân mà không chờ được ý kiến của những người nêu trên thì phải có quyết định của người có thẩm quyền của cơ sở khám, chữa bệnh”.

 

13. Về quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín

Trước đây, Bộ luật dân sự năm 2005 chỉ quy định ngắn gọn: “Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ”.

Điều 34 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định cụ thể như sau:
– Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.
– Cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình.
Việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể được thực hiện sau khi cá nhân chết theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc con thành niên; trường hợp không có những người này thì theo yêu cầu của cha, mẹ của người đã chết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.
– Thông tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng nào thì phải được gỡ bỏ, cải chính bằng chính phương tiện thông tin đại chúng đó. Nếu thông tin này được cơ quan, tổ chức, cá nhân cất giữ thì phải được hủy bỏ.
– Trường hợp không xác định được người đã đưa tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình thì người bị đưa tin có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố thông tin đó là không đúng.
– Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin đó còn có quyền yêu cầu người đưa ra thông tin xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại.

 

14. Về quyền hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác

Điều 35 Bộ luật dân sự năm 2015 đã gộp chung quyền hiến bộ phận cơ thể và quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết thành 01 điều, đồng thời cụ thể nội dung quy định này:

– Cá nhân có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống hoặc hiến mô, bộ phận cơ thể, hiến xác của mình sau khi chết vì mục đích chữa bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu y học, dược học và các nghiên cứu khoa học khác.

– Cá nhân có quyền nhận mô, bộ phận cơ thể của người khác để chữa bệnh cho mình.
Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, pháp nhân có thẩm quyền về nghiên cứu khoa học có quyền nhận bộ phận cơ thể người, lấy xác để chữa bệnh, thử nghiệm y học, dược học và các nghiên cứu khoa học khác.

– Việc hiến, lấy mô, bộ phận cơ thể người, hiến, lấy xác phải tuân thủ theo các điều kiện và được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác và luật khác có liên quan.

 

15. Quyền xác định lại giới tính

Điều 36 Bộ luật dân sự năm 2015 bổ sung thêm hệ quả pháp lý do xác định lại giới tính: “Cá nhân đã thực hiện việc xác định lại giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định pháp luật về hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được xác định lại theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 và luật khác có liên quan”.

 

16. Lần đầu tiên, Bộ luật dân sự năm2015 thừa nhận việc chuyển đổi giới tính

Đây là điểm mới nổi bật tại Bộ luật dân sự năm 2015 được cộng đồng người dân quan tâm rất nhiều. Điều 37 Bộ luật dân sự năm 2015 cho phép chuyển đổi giới tính theo quy định của pháp luật. Theo đó, cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có các quyền nhân thân phù hợp với giới tính theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan.

 

17. Về quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình

Quyền này được Điều 38 Bộ luật dân sự năm 2015 nhân rộng ra từ quyền bí mật đời tư quy định tại Bộ luật dân sự năm 2005:

– Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.

– Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác.

– Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác chỉ được thực hiện trong trường hợp luật quy định.

– Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

 

18. Về quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình

Điều 39 Bộ luật dân sự năm 2015 gộp chung các quyền về kết hôn, ly hôn, nuôi con, hưởng quyền chăm sóc của các thành viên khác trong gia đình thành 01 điều:

– Cá nhân có quyền kết hôn, ly hôn, quyền bình ðẳng của vợ chồng, quyền xác ðịnh cha, mẹ, con, quyền ðýợc nhận làm con nuôi, quyền nuôi con nuôi và các quyền nhân thân khác trong quan hệ hôn nhân, quan hệ cha mẹ và con và quan hệ giữa các thành viên gia đình.
Con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha, mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha, mẹ của mình.

– Cá nhân thực hiện quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, Luật hôn nhân và gia đình và luật khác có liên quan.

 

19. Về nơi cư trú của cá nhân

Bên cạnh các quy định tại Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 40 Bộ luật dân sự năm 2015 bổ sung: “Trường hợp một bên trong quan hệ dân sự thay đổi nơi cư trú gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thì phải thông báo cho bên kia biết về nơi cư trú mới”.

 

20. Về giám hộ

Điều 46 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định cụ thể về việc giám hộ. Đồng thời, thay cụm từ “tổ chức” thành “pháp nhân”tại quy định sau:

– Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ lựa chọn người giám hộ cho mình (gọi chung là người giám hộ) để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (gọi chung là người được giám hộ).

– Trường hợp giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì phải được sự đồng ý của người đó nếu họ có năng lực thể hiện ý chí của mình tại thời điểm yêu cầu.

– Việc giám hộ phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định pháp luật về hộ tịch.

– Người giám hộ đương nhiên mà không đăng ký việc giám hộ thì vẫn phải thực hiện nghĩa vụ của người giám hộ.

 

21. Bổ sung thêm đối tượng được giám hộ

Ngoài các đối tượng được giám hộ quy định tại Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 47 Bộ luật dân sự năm 2015 bổ sung các đối tượng sau được giám hộ:

– Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
– Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

 

22. Quy định cụ thể về người giám hộ

So với Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 48 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định cụ thể hơn về người giám hộ:
– Cá nhân, pháp nhân có đủ điều kiện quy định được làm người giám hộ.
– Trường hợp người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ lựa chọn người giám hộ cho mình thì khi họ ở tình trạng cần được giám hộ, cá nhân, pháp nhân được lựa chọn là người giám hộ nếu người này đồng ý. Việc lựa chọn người giám hộ phải được lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực.
– Việc giám hộ không chỉ được thực hiện bởi cá nhân: “Một cá nhân, pháp nhân có thể giám hộ cho nhiều người”.

 

23. Điều kiện của cá nhân làm người giám hộ

Điều 49 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định lại các điều kiện cần thiết của một cá nhân làm người giám hộ:

– Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
– Có tư cách đạo đức tốt và các điều kiện cần thiết để thực hiện quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.
– Không phải là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người bị kết án nhưng chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác.
– Không phải là người bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa thành niên.

 

24. Lần đầu tiên, quy định điều kiện của pháp nhân làm người giám hộ

Trước đây, Bộ luật dân sự năm 2005 quy định chỉ có cá nhân mới được phép làm người giám hộ, Điều 50 Bộ luật dân sự năm 2015 mở rộng việc giám hộ không chỉ là cá nhân mà còn là pháp nhân. Pháp nhân có đủ các điều kiện sau có thể làm người giám hộ: có năng lực pháp luật dân sự phù hợp với việc giám hộ; có điều kiện cần thiết để thực hiện quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.

 

25. Về giám sát việc giám hộ

Điều 51 Bộ luật dân sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung thêm nội dung về giám sát việc giám hộ, cụ thể:

– Cử người giám sát việc giám hộ không còn là trách nhiệm của người thân thích của người được giám hộ mà việc này được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận: Người thân thích của người được giám hộ thỏa thuận cử người giám sát việc giám hộ trong số những người thân thích hoặc chọn cá nhân, pháp nhân khác làm người giám sát việc giám hộ (thay thế cụm từ “có trách nhiệm” thành cụm từ “thỏa thuận”).
Việc cử, chọn người giám sát việc giám hộ phải được sự đồng ý của người đó. Trường hợp giám sát việc giám hộ liên quan đến quản lý tài sản của người được giám hộ thì người giám sát phải đăng ký tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ.

– Thành phần người thân thích của người được giám hộ không thay đổi so với trước, tuy nhiên làm rõ từ “bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột” thay vì sử dụng từ “bác, chú, cậu, cô, dì” như Bộ luật dân sự 2005.

– Nêu rõ cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về việc cử, chọn người giám sát việc giám hộ: “Trường hợp có tranh chấp về việc cử, chọn người giám sát việc giám hộ thì Tòa án quyết định”.

– Quy định cụ thể về người giám sát việc giám hộ và quyền, nghĩa vụ của người này. Người giám sát việc giám hộ phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nếu là cá nhân, có năng lực pháp luật dân sự phù hợp với việc giám sát nếu là pháp nhân; có điều kiện cần thiết để thực hiện việc giám sát.

 

26. Về quyền và nghĩa vụ của người giám hộ 

Điều 56 Bộ luật dân sự năm 2015 bổ sung thêm nội dung về nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi như sau: “Quản lý tài sản của người được giám hộ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.

 

Điều 57 Bộ luật dân sự năm 2015 bổ sung nghĩa vụ của người giám hộ đối với người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi: Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có nghĩa vụ theo quyết định của Tòa án trong số các nghĩa vụ sau: Chăm sóc, bảo đảm việc điều trị bệnh cho người được giám hộ; Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự; Quản lý tài sản của người được giám hộ; Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ”.

 

Điều 58 Bộ luật dân sự năm 2015 đã phân định rõ quyền của người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự và người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi:

– Đối với người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự có các quyền sau:
+ Sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chi dùng cho những nhu cầu thiết yếu của người được giám hộ.
+ Được thanh toán các chi phí hợp lý cho việc quản lý tài sản của người được giám hộ.
+ Đại diện cho người được giám hộ trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự và thực hiện các quyền khác theo quy định pháp luật nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.

– Đối với người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có quyền theo quyết định của Tòa án trong số các quyền sau:
+ Sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chi dùng cho những nhu cầu thiết yếu của người được giám hộ.
+ Được thanh toán các chi phí hợp lý cho việc quản lý tài sản của người được giám hộ.
+ Đại diện cho người được giám hộ trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự và thực hiện các quyền khác theo quy định pháp luật nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.

 

27. Về thay đổi người giám hộ

Điều 60 Bộ luật dân sự năm 2015 bổ sung thêm trường hợp được thay đổi người giám hộ:
– Người giám hộ là cá nhân bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự , có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, mất năng lực hành vi dân sự.
– Thủ tục thay đổi người giám hộ không thực hiện theo Bộ luật dân sự mà thực hiện theo quy định pháp luật về hộ tịch: “Thủ tục thay đổi người giám hộ được thực hiện theo quy định pháp luật về hộ tịch”.

 

28. Về hậu quả chấm dứt việc giám hộ

Điều 63 Bộ luật dân sự năm 2015 bổ sung các nội dung sau:

– Trường hợp người được giám hộ đã có năng lực hành vi dân sự  đầy đủ thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày chấm dứt việc giám hộ, người giám hộ thanh toán tài sản với người được giám hộ, chuyển giao quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự vì lợi ích của người được giám hộ cho người được giám hộ;

– Trường hợp chấm dứt việc giám hộ do cha, mẹ của người được giám hộ là người chưa thành niên đã có đủ điều kiện để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình, người được giám hộ được nhận làm con nuôi thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày chấm dứt việc giám hộ, người giám hộ thanh toán tài sản và chuyển giao quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự vì lợi ích của người được giám hộ cho cha, mẹ của người được giám hộ.

– Việc thanh toán tài sản và chuyển giao quyền, nghĩa vụ quy định được lập thành văn bản với sự giám sát của người giám sát việc giám hộ.
Đồng thời, cụ thể hóa nội dung hậu quả chấm dứt việc giám hộ trong trường hợp người được giám hộ chết: Trường hợp người được giám hộ chết thì trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày chấm dứt việc giám hộ, người giám hộ thanh toán tài sản với người thừa kế hoặc giao tài sản cho người quản lý di sản của người được giám hộ, chuyển giao quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự vì lợi ích của người được giám hộ cho người thừa kế của người được giám hộ. Nếu hết thời hạn đó mà chưa xác định được người thừa kế thì người giám hộ tiếp tục quản lý tài sản của người được giám hộ cho đến khi tài sản được giải quyết theo quy định pháp luật về thừa kế và thông báo cho Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ.

 

29. Về nghĩa vụ của người quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú

Khoản 3 Điều 66 Bộ luật dân sự năm 2015 bổ sung thêm nghĩa vụ: “Thanh toán nghĩa vụ tài chính khác của người vắng mặt bằng tài sản của người đó theo quyết định của Tòa án”.

 

30. Về tuyên bố mất tích và hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích

Khoản 2, 3 Điều 68 Bộ luật dân sự năm 2015 bổ sung thêm nội dung về tuyên bố mất tích như sau:

– Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn theo quy định pháp luật về hôn nhân và gia đình.

– Quyết định của Tòa án tuyên bố một người mất tích phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú cuối cùng của người bị tuyên bố mất tích để ghi chú theo quy định pháp luật về hộ tịch.
Khoản 4 Điều 70 Bộ luật dân sự năm 2015 bổ sung thêm nội dung về huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất tích như sau: “Quyết định của Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố mất tích để ghi chú theo quy định pháp luật về hộ tịch”.

 

31. Về tuyên bố chết và hủy bỏ quyết định tuyên bố chết

Khoản 1, 3 Điều 71 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:

– Kéo dài thời gian tuyên bố một người là đã chết đối với trường hợp bị tai nạn, thảm họa thiên tai: “Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (trước đây, quy định thời gian này là 01 năm)”.

– Bổ sung quy định sau: “Quyết định của Tòa án tuyên bố một người là đã chết phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố là đã chết để ghi chú theo quy định pháp luật về hộ tịch”.
Khoản 4, 5 Điều 73 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định bổ sung thêm nội dung liên quan đến huỷ bỏ quyết định tuyên bố chết như sau:

– Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng được giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, Luật hôn nhân và gia đình.

– Quyết định của Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố là đã chết để ghi chú theo quy định pháp luật về hộ tịch.
Như vậy, Bộ luật dân sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung liên quan đến quyền nhân thân của cá nhân so với Bộ luật dân sự năm 2005. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử xây dựng pháp luật, vấn đề xác định lại giới tính đã được ghi nhận. Như đã phân tích ở trên, Điều 37 Bộ luật dân sự năm năm 2015 quy định: “Việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật. Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có các quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan”. Khi ghi nhận quy định này, Bộ luật dân sự năm 2015 đã đáp ứng được nhu cầu của một bộ phận công dân trong xã hội mà không trái với truyền thống, phong tục tốt đẹp của dân tộc và phù hợp với thông lệ quốc tế chung. Nhà nước cần sớm có hướng dẫn để người được hưởng quyền cũng như các cơ quan, tổ chức liên quan dễ dàng áp dụng. Vấn đề xác định lại giới tính và chuyển đổi giới tính trong Bộ luật dân sự năm 2015 được xem là một bước tiến mới, bắt kịp xu thế toàn cầu trong hoạt động lập pháp của Việt Nam và là một tín hiệu đáng mừng cho cộng đồng người đồng tính, song tính và chuyển giới tại Việt Nam trong quá trình đấu tranh để được xã hội và pháp luật công nhận.

 

Tác giả: Th.S Nguyễn Lan Hương

Nguồn: Thanh tra Bộ

 


 

Các tìm kiếm liên quan đến điểm mới về quyền nhân thân trong bộ luật dân sự 2015,: hãy kể tên những quyền nhân thân, quyền nhân thân trong bộ luật dân sự 2005, quy định của bộ luật dân sự năm 2015 về sở hữu chung của các thành viên gia đình, những quyền nhân thân trong bộ luật dân sự 2015, kể tên quyền nhân thân, hãy nêu quy định của bộ luật dân sự năm 2015 về sở hữu chung của vợ chồng, quyền nhân thân 2015, quyền nhân thân bộ luật dân sự 2015

đánh giá bài viết

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền