Các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015
Một trong những nguyên tắc chung của Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em được quy định tại Điều 3 là: “trong tất cả mọi hành động liên quan đến trẻ em, dù do các cơ quan phúc lợi xã hội công cộng hay tư nhân, toà án, các nhà chức trách hành chính hay cơ quan lập pháp tiến hành thì lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là mối quan tâm hàng đầu”.
Mặc dù, Công ước không đưa ra khái niệm chính xác như thế nào là “lợi ích tốt nhất của trẻ em” cũng như không đưa ra cách thức mà các Chính phủ và các cơ quan nhà nước nên áp dụng quy định này song từ thực tiễn và tại Đoạn 10 Bình luận chung số 10 về Các quyền của trẻ em trong tư pháp người chưa thành niên của Ủy ban LHQ về Quyền Trẻ em có nêu như sau:“Trong tất cả các quyết định được đưa ra khi áp dụng tư pháp với người chưa thành niên, lợi ích tốt nhất của trẻ em cần được quan tâm hàng đầu. Trẻ em khác với người trưởng thành về mức độ phát triển thể chất và tâm lý cũng như những nhu cầu cảm xúc và giáo dục. Những sự khác biệt đó là lý do khiến trẻ em có năng lực pháp luật hình sự thấp hơn. Những điều này và những sự khác biệt khác là lý do vì sao cần có một hệ thống tư pháp riêng cho người chưa thành niên và cần xử lý trẻ em theo cách thức khác với người lớn. Chẳng hạn, bảo vệ những lợi ích tốt nhất của trẻ em đồng nghĩa với việc phải thay thế những mục tiêu truyền thống của tư pháp hình sự, như trấn áp/trừng phạt, bằng các mục tiêu phục hồi và tư pháp phục hồi khi xử lý trẻ em vi phạm pháp luật. Điều này có thể thực hiện trên cơ sở kết hợp với việc bảo đảm an toàn cho cộng đồng một cách có hiệu quả.”
Theo đó, một trong những cách thức chủ yếu mà hệ thống tư pháp người chưa thành niên có thể đảm bảo lợi ích tốt nhất của trẻ sẽ luôn là mối quan tâm hàng đầu là việc quy định rõ nguyên tắc này trong các văn bản pháp lý liên quan. Tuy nhiên, hiện nay mới chỉ có một vài quốc gia đề cập đến thuật ngữ “lợi ích tốt nhất của trẻ em” trong các văn bản pháp lý của mình.[1]
Mặc dù BLHS năm 1999 không quy định trực tiếp nguyên tắc “lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là mối quan tâm hàng đầu” trong hoạt động tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội mà chỉ phản ánh nguyên tắc này tại một số điều khoản trong Chương X của BLHS, thì đến BLHS năm 2015, lần đầu tiên đã quy định trực tiếp về nguyên tắc này tại khoản 1 Điều 91. Cụ thể, khoản này quy định việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải “bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi” và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
Các chuẩn mực quốc tế và Ủy ban Liên hợp quốc về quyền trẻ em khuyến nghị việc xây dựng một đạo luật riêng về tư pháp người chưa thành niên nhằm đảm bảo các tiêu chuẩn và quy tắc quốc tế được phản ánh một cách đầy đủ, toàn diện trong các quy định về hệ thống tư pháp người chưa thành niên, đồng thời đảm bảo rằng các trình tự, thủ tục, các quy định liên quan đến người chưa thành niên được xây dựng dựa trên nguyên tắc phù hợp với các nhu cầu và lợi ích cụ thể của người chưa thành niên.
Tuy nhiên, tại nước ta, trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá thực tiễn tình hình người chưa thành niên phạm tội tại Việt Nam[2], xét trong bối cảnh chung của tình hình kinh tế – văn hóa – chính trị – xã hội hiện tại cho thấy việc xây dựng một đạo luật riêng về tư pháp người chưa thành niên là chưa khả thi. Do đó, để phù hợp với khung chuẩn mức quốc tế về tư pháp người chưa thành niên, nội dung Chương X BLHS 1999 đã được sửa đổi, bổ sung rất cụ thể tạo thành hệ thống tư pháp người chưa thành niên khá riêng biệt.
Về xử lý chuyển hướng, Ủy ban liên cơ quan của Liên hợp quốc về tư pháp người chưa thành niên định nghĩa như sau: “Một đứa trẻ được xử lý chuyển hướng khi đứa trẻ đó vi phạm pháp luật song vụ án đã được giải quyết bằng các biện pháp thay thế cho việc áp dụng xét xử chính thức thông thường của cơ quan có thẩm quyền có liên quan. Để được xử lý chuyển hướng, trẻ em và/hoặc cha mẹ hay người giám hộ của các em phải đồng ý chuyển hướng xử lý vụ việc của đứa trẻ. Xử lý chuyển hướng có thể bao gồm các biện pháp dựa trên các nguyên tắc của tư pháp phục hồi.”[3]
Có những lý do được cho là căn bản được đưa ra khi sử dụng các biện pháp xử lý chuyển hướng để xử lý người chưa thành niên phạm tội bên ngoài hệ thống tư pháp chính thức, gồm:
– Thứ nhất, theo đoạn 25, Điều 40(1) CƯQTE, Bình luận chung số 10 là: “Thúc đẩy ý thức của trẻ em về phẩm cách và phẩm giá vốn làm tăng cường lòng tôn trọng của trẻ em đối với quyền con người và tự do cơ bản của người khác, mà cũng phải tính đến lứa tuổi của trẻ em và điều mong muốn làm sao thúc đẩy sự tái hoà nhập và việc đảm đương một vai trò xây dựng của trẻ em trong xã hội”.
– Thứ hai, theo Bình luận Quy tắc số 11.4 của Quy tắc Bắc Kinh, thì xử lý chuyển hướng có vai trò nhằm “giúp ngăn ngừa các tác động tiêu cực của các thủ tục tố tụng tiếp theo trong việc áp dụng tư pháp người chưa thành niên (chẳng hạn sự kỳ thị khi bị kết tội và xử phạt). Trong nhiều trường hợp, không can thiệp lại là giải pháp tốt nhất. Do đó, xử lý chuyển hướng ngay từ đầu và không cần sử dụng các dịch vụ thay thế (xã hội) có thể là giải pháp tối ưu. Đặc biệt là trong trường hợp tội phạm có tính chất không nghiêm trọng và khi gia đình, nhà trường hay các tổ chức giám sát xã hội khác đã có cách xử lý hoặc có khả năng xử lý một cách phù hợp và mang tính xây dựng;
– Thứ ba, đoạn 25, Bình luận chung số 10 của Ủy ban LHQ về Quyền Trẻ em, thì việc áp dụng biện pháp này sẽ giúp tránh sự kỳ thị, phân biệt; mang lại những kết quả tốt cho trẻ em; vì sự an toàn của cộng đồng; và thực tiễn đã chứng minh xử lý chuyển hướng là một biện pháp có hiệu ích về chi phí .
Xuất phát từ những lợi ích nêu trên, tại Điều 40(3)(b) Công ước LHQ về Quyền Trẻ em và Quy tắc Bắc Kinh số 6 & 11 đã khuyến khích Các quốc gia sử dụng “xử lý chuyển hướng” như một biện pháp thay thế cho việc xử lý vụ án người chưa thành niên vi phạm pháp luật qua hệ thống tư pháp bất cứ khi nào phù hợp và có thể, với điều kiện tôn trọng đầy đủ quyền con người và các nguyên tắc pháp lý[4].
Nhằm thể hiện được chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta trong xử lý người chưa thành niên phạm tội, tham khảo có chọn lọc các phương án xử lý chuyển hướng phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam, tại Mục 2 Chương XII BLHS 2015 về các biện pháp giám sát, giáo dục trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự đã quy định 03 biện pháp gồm: khiển trách, hòa giải tại cộng đồng và giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Điều kiện chung để được áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục này là “người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ đồng ý với việc áp dụng một trong các biện pháp này”.
Nhằm giúp người dưới 18 tuổi phạm tội tránh được những tác động tiêu cực của các thủ tục tố tụng hình sự thông thường mà vẫn nhận thức được lỗi lầm, tích cực khắc phục hậu quả, tự cải tạo giáo dục để trở thành người có ích cho xã hội, Mục 2 Chương XII Bộ luật hình sự 2015 đã sửa đổi quy định về miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội theo hướng mở rộng phạm vi áp dụng chế định này, đồng thời quy định cơ quan cụ thể có thẩm quyền áp dụng các biện pháp thay thế xử lý hình sự.
1. Về biện pháp khiển trách.
Có thể thấy đây là biện pháp mang tính ít nghiêm khắc nhất trong 03 biện pháp giám sát, giáo dục được quy định bởi:
Thứ nhất, biện pháp được áp dụng nhằm mục đích giúp người dưới 18 tuổi phạm tội nhận thức rõ hành vi phạm tội, hậu quả gây ra đối với cộng đồng, xã hội và nghĩa vụ của họ;
Thứ hai, ngoài điều kiện chung quy định tại Điều 92 BLHS thì để được áp dụng biện pháp này, người dưới 18 tuổi phạm tội phải thuộc một trong các trường hợp sau:
– Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự;
– Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.
Đối với trường hợp quy định tại điểm (a) nêu trên thì các tiêu chí xác định đã rất rõ, như tội phạm ít nghiêm trọng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 9 BLHS là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật hình sự quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm; hoặc “thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91” là thuộc trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, trừ tội phạm quy định tại các điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác), 141 (tội hiếp dâm), 171 (tội cướp giật tài sản), 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy), 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy), 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy), 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy) và 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật hình sự.
Đối với trường hợp quy định tại điểm (b), vấn đề đặt ra là tiêu chí nào để được xác định là “đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án”, có sự phân biệt giữa các trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hay không? Bởi đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng như các tội xâm phạm an ninh quốc gia quy định tại Chương XIII của BLHS (Điều 109, Điều 111, Điều 112, Điều 118), chỉ quy định chung là “người đồng phạm khác” đều phải chịu mức phạt tù từ 02 năm đến 07 năm đối với tội phá rối an ninh, từ 05 năm đến 15 năm đối với tội bạo loạn…
Thứ ba, chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án
Thứ tư, về thủ tục áp dụng: khoản 2 Điều 93 BLHS chỉ quy định “việc khiển trách đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải có sự chứng kiến của cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của người dưới 18 tuổi”và tại Điều 427 Bộ luật tố tung hình sự quy định: “1. Khi miễn trách nhiệm hình sự cho người dưới 18 tuổi phạm tội mà xét thấy có đủ điều kiện áp dụng biện pháp khiển trách theo quy định của Bộ luật hình sự thì Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng biện pháp khiển trách đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong vụ án do cơ quan mình thụ lý, giải quyết.
Quyết định áp dụng biện pháp khiển trách có các nội dung chính:
– Số, ngày, tháng, năm; địa điểm ra quyết định;
– Họ tên, chức vụ, chữ ký của người có thẩm quyền ra quyết định và đóng dấu của cơ quan ra quyết định;
– Lý do, căn cứ ra quyết định;
– Họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của bị can, bị cáo;
– Tội danh, điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự đã áp dụng;
– Thời gian thực hiện nghĩa vụ của người bị khiển trách.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải giao ngay quyết định áp dụng biện pháp khiển trách cho người bị khiển trách, cha mẹ hoặc người đại diện của họ.”; mà không quy định cụ thể về nơi tiến hành việc khiển trách cũng như sự chứng kiến của tổ chức, đoàn thể xã hội nào hoặc nạn nhân. Thực tế cho thấy có những những trường hợp con cái hư hỏng, đua đòi, vi phạm pháp luật một phần xuất phát từ việc có những bậc phụ huynh quá nuông chiều con cái, họ bênh vực thậm chí đôi khi còn bao che cho hành vi không đúng của con… khiến những đứa trẻ được trong hoàn cảnh như vậy càng dễ dàng trượt ngã, có hành vi vi phạm pháp luật. Theo đó, nếu việc khiển trách chỉ diễn ra trước sự chứng kiến của cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp tại nhà người dưới 18 tuổi phạm tội thì việc khiển trách này khó có thể tránh khỏi sự hình thức, chiếu lệ làm cho xong mà bản thân người dưới 18 tuổi phạm tội cũng khó cảm thấy ăn năn về hành vi phạm tội mà hối cải. Vậy nên, theo quan điểm của cá nhân, để phát huy tính giáo dục, tránh tính hình thức khi áp dụng biện pháp này thì cần có sự hướng dẫn cụ thể hơn về trình tự, thủ tục tiến hành khiển trách của cơ quan có thẩm quyền cũng như nơi tiến hành khiển trách, sự tham gia của các tổ chức chính trị – xã hội tại địa phương nơi người dưới 18 tuổi phạm tội sinh sống.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 93 BLHS thì người bị khiển trách phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
– Tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế của nơi cư trú, học tập, làm việc;
– Trình diện trước cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu;
– Tham gia các chương trình học tập, dạy nghề do địa phương tổ chức, tham gia lao động với hình thức phù hợp.
Quan điểm cá nhân tôi cho rằng, việc quy định buộc người dưới 18 tuổi phạm tội bị khiển trách “phải thực hiện” nghĩa vụ tham gia các chương trình học tập, dạy nghề do địa phương tổ chức còn khá cứng nhắc, chưa thực sự linh hoạt, cần phải có hướng dẫn thêm về các điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ, bởi: việc tham gia học tập, đặc biệt là học nghề cần phù hợp với nhu cầu thực tế cũng như phụ thuộc vào giới tính của người học. ví dụ: Em H 17 tuổi lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng và bị áp dụng khiển trách, cơ quan điều tra ấn định thời gian thực hiện nghĩa vụ quy định tại điểm b và điểm c khoản 3 Điều 93 BLHS là 6 tháng. Trong khoảng thời gian 6 tháng này, tại địa phương nơi H cư trú chỉ tổ chức được 01 lớp học nghề chỉ phù hợp với đối tượng là nam giới hoặc có lớp dạy nghề cho giới nữ nhưng không phù hợp với năng khiếu hay định hướng nghề nghiệp của H (tiếp tục theo học lên đại học chẳng hạn)… thì H có buộc phải tham gia học nghề để thực hiện nghĩa vụ quy định không? Hay trường hợp khác, giả sử lớp học nghề được tổ chức phù hợp với định hướng nghề nghiệp sau này của người phạm tội, thì một vấn đề nữa đặt ra là ai sẽ chi trả học phí cho việc học nghề khi gia đình các em thuộc diện quá nghèo, không có tiền đóng học hoặc các em là trẻ mồ côi, lang thang, không nơi nương tựa… Vậy, trong các trường hợp nêu trên, việc người bị khiển trách không thực hiện được nghĩa vụ của mình không hẳn hoàn toàn là do lỗi của họ thì sẽ phải giải quyết như thế nào?
Ngoài ra, cũng tại điểm c khoản 3 Điều 93 còn quy định người bị khiển trách phải thực hiện nghĩa vụ “tham gia lao động với hình thức phù hợp”. Vậy thế nào là lao động với hình thức phù hợp hay tiêu chí nào để xác định tính phù hợp của hình thức thức lao động, các hình thức lao động đó là gì, cơ quan, người nào có thẩm quyền giám sát quá trình lao động này của người bị khiển trách…? Do đó, theo tôi, đây cũng là vấn đề cần được làm rõ trong các văn bản hướng dẫn thực hiện biện pháp khiển trách của cơ quan có thẩm quyền, đảm bảo mục tiêu, ý nghĩa ban đầu đặt ra đối với biện pháp giám sát, giáo dục này.
2. Về biện pháp hòa giải tại cộng đồng.
Đây là biện pháp mang tính nghiêm khắc hơn so với biện pháp khiển trách.
Về điều kiện áp dụng, ngoài điều kiện chung quy định tại Điều 92 BLHS thì để được áp dụng biện pháp này, người dưới 18 tuổi phạm tội phải thuộc một trong các trường hợp sau:
– Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự;
– Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự.
Cũng theo quy định tại khoản 2 Điều 92 thì việc hòa giải tại cộng đồng được thực hiện khi người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại đã tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự.
Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng được thực hiện như sau:
Khi xét thấy có đủ điều kiện áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng theo quy định của Bộ luật hình sự thì Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng.
Quyết định áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng có các nội dung chính:
– Số, ngày, tháng, năm; địa điểm ra quyết định;
– Họ tên, chức vụ, chữ ký của người ra quyết định và đóng dấu của cơ quan ra quyết định;
– Lý do, căn cứ ra quyết định;
– Tội danh, điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự đã áp dụng;
– Họ tên Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên hoặc Thẩm phán được phân công tiến hành hòa giải;
– Họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của bị can, bị cáo;
– Họ tên người bị hại;
– Họ tên những người khác tham gia hòa giải;
– Thời gian, địa điểm, tiến hành hòa giải.
Quyết định áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng phải giao cho người dưới 18 tuổi phạm tội, cha mẹ hoặc người đại diện của họ; người bị hại, người đại diện của người bị hại và Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi tổ chức việc hòa giải tại cộng đồng chậm nhất là 03 ngày trước ngày tiến hành hòa giải.
Khi tiến hành hòa giải, Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên hoặc Thẩm phán được phân công tiến hành hòa giải phải phối hợp với Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi tổ chức việc hòa giải và phải lập biên bản hòa giải.
Biên bản hòa giải có các nội dung chính:
– Địa điểm, giờ, ngày, tháng, năm tiến hành hòa giải, thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc;
– Họ tên Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán được phân công tiến hành hòa giải;
– Họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của bị can, bị cáo;
– Họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người bị hại;
– Họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của những người khác tham gia hòa giải;
– Các câu hỏi, câu trả lời, lời trình bày của những người tham gia hòa giải;
– Kết quả hòa giải; người dưới 18 tuổi, cha mẹ hoặc người đại diện của người dưới 18 tuổi xin lỗi người bị hại và bồi thường thiệt hại (nếu có); người bị hại, người đại diện của người bị hại đã tự nguyện hòa giải, đề nghị miễn trách nhiệm hình sự (nếu có);
– Chữ ký của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán hòa giải.
Ngay sau khi kết thúc hòa giải, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán tiến hành hòa giải phải đọc lại biên bản cho những người tham gia hòa giải nghe. Nếu có người yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung thì Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán đã lập biên bản phải ghi những sửa đổi, bổ sung đó vào biên bản và ký xác nhận. Trường hợp không chấp nhận yêu cầu thì phải ghi rõ lý do vào biên bản. Biên bản hòa giải được giao ngay cho những người tham gia hòa giải.
Người được áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
– Xin lỗi người bị hại và bồi thường thiệt hại;
– Tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế của nơi cư trú, học tập, làm việc;
– Trình diện trước cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu;
– Tham gia các chương trình học tập, dạy nghề do địa phương tổ chức, tham gia lao động với hình thức phù hợp.
Tùy từng trường hợp cụ thể, cơ quan có thẩm quyền ấn định thời điểm xin lỗi, thời gian thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại và nghĩa vụ quy định tại điểm b và điểm c khoản 3 Điều 93 của Bộ luật hình sự từ 03 tháng đến 01 năm.
Có thể thấy, để tránh việc áp dụng một cách “tràn lan”, làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật, khoản 1, khoản 2 Điều 94 BLHS đã quy định giới hạn cụ thể về phạm vi được áp dụng biện pháp này. Theo đó, ngoài giới hạn về loại tội phạm người dưới 18 tuổi đã thực hiện còn có điều kiện là “người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại đã tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự”. Do đây là biện pháp mới được quy định lần đầu tiên trong luật nên trong quá trình triển khai quy định này, cần có những hướng dẫn, tập huấn cụ thể để đảm bảo việc áp dụng biện pháp trên thực tế thể hiện được tính nhân đạo, tính hướng thiện, tính giáo dục từ đó góp phần làm giảm số vụ việc người dưới 18 tuổi phạm tội, nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật của người phạm tội, nguy cơ tái phạm thấp…
3. Về biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Biện pháp có thể được áp dụng từ 01 năm đến 02 năm đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
– Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự;
– Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự.
Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn được thực hiện như sau:
Khi miễn trách nhiệm hình sự cho người dưới 18 tuổi phạm tội mà xét thấy có đủ điều kiện áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo quy định của Bộ luật hình sự thì Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong vụ án do cơ quan mình thụ lý, giải quyết.
Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn có các nội dung chính:
– Số, ngày, tháng, năm; địa điểm ra quyết định;
– Họ tên, chức vụ, chữ ký của người ra quyết định và đóng dấu của cơ quan ra quyết định;
– Lý do, căn cứ ra quyết định;
– Họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của bị can, bị cáo;
– Tội danh, điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự đã áp dụng;
– Thời hạn áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
– Trách nhiệm của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người bị áp dụng biện pháp này cư trú.
Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải giao quyết định cho người bị áp dụng biện pháp này, cha mẹ hoặc người đại diện của họ và chính quyền xã, phường, thị trấn nơi họ cư trú.
Người được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức giám sát, giáo dục phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
– Chấp hành đầy đủ nghĩa vụ về học tập, lao động;
– Chịu sự giám sát, giáo dục của gia đình, xã, phường, thị trấn;
– Không đi khỏi nơi cư trú khi không được phép;
– Tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế của nơi cư trú, học tập, làm việc;
– Trình diện trước cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu;
– Tham gia các chương trình học tập, dạy nghề do địa phương tổ chức, tham gia lao động với hình thức phù hợp.
Nếu người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn đã chấp hành một phần hai thời hạn, có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của Ủy ban nhân dân cấp xã được giao trách nhiệm quản lý, giáo dục, cơ quan đã áp dụng biện pháp này có thể quyết định chấm dứt thời hạn giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Có thể thấy, những quy định liên quan đến chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đã được sửa đổi, bổ sung tương đối cơ bản, toàn diện nhằm khắc phục những tồn tại, vướng mắc của BLHS năm 1999, nhất là các quy định liên quan đến xử lý chuyển hưởng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Vấn đề đặt ra là chúng ta thực thi các cải cách mới này của Bộ luật trên thực tế. Do đó, theo tôi trước tiên cần tăng cường việc tuyên truyền, phổ biến những quy định của Bộ luật tới người dân, nhất là đối tượng người dưới 18 tuổi, qua đó góp phần nâng cao ý thức thượng tôn pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa chung. Đồng thời, cần đẩy mạnh công tác tập huấn cho thẩm phán, công an, kiểm sát viên, công chức tư pháp – hộ tịch và công chức về phúc lợi xã hội nhằm nâng cao năng lực cho đội ngũ này khi thực hiện các quy định của pháp luật liên quan. Thứ ba, cần xây dựng một văn bản quy phạm pháp luật quy định những nguyên tắc, thủ tục và phương pháp đặc biệt được tiến hành khi hòa giải tại cộng đồng. Thứ tư, cần tăng cường sự đa dạng cũng như nâng cao chất lượng của các dịch vụ tại cộng đồng dành cho người dưới 18 tuổi phạm tội được áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn để giáo dục, phục hồi người dưới 18 tuổi tại cộng đồng hiệu quả.
Nguồn: Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp
[1] Xem, ví dụ Đạo luật Tư pháp Vị thành niên (Ghana) 2003, Phần 2.
[2] Theo Báo cáo của Chính phủ, hằng năm có đến 16.000 – 18.000 trẻ em chưa thành niên phạm tội, chiếm 15-18% tổng số tội phạm. Trong 05 năm (2007-2012), các lực lượng công an đã điều tra hơn 49.000 vụ phạm pháp hình sự với gần 76000 đối tượng chưa thành niên phạm pháp, chỉ riêng trong năm 2012, trong số 122.277 bị can bị khởi tố có 9.904 bị can dưới 18 tuổi, chiếm 8,1%, tăng 7,4% so với năm 2011. Điều đặc biệt là hơn 65% vụ phạm pháp của người chưa thành niên có sử dụng vũ khí nóng hoặc hung khí… (nguồn http://tuoitre.vn/vi-thanh-nien-pham-toi-tai-sao-519537.htm).
Cũng theo Báo cáo phân tích thực trạng hệ thống tư pháp cho người chưa thành niên ở Việt Nam, năm 2015, số người chưa thành niên vi phạm pháp luật hình sự từ năm 2006 đến năm 2015 có sự tăng giảm khác nhau, cụ thể: năm 2006 là 2835 vụ, năm 2007 là 3056 vụ, năm 2008 à 3842 vụ, năm 2009 là 2968 vụ, năm 2010 là 3035 vụ, năm 2011 là 3248 vụ, năm 2012 là 3704 vụ, năm 2013là 3118 vụ, năm 2014 là 3160 vụ và năm 2015 là 2511 vụ.
[3] Trang web của Ủy ban Liên cơ quan của LHQ về Tư pháp Vị thành niên, từ vựng: http://www.juvenilejusticepanel.org/glossary/D.
[4] Công ước LHQ về Quyền Trẻ em, Điều 40(3)(b) và Quy tắc Bắc Kinh số 6 & 11.
Để lại một phản hồi