Việc bổ sung nhận biết giọng nói là một biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 là phù hợp và cần thiết nhằm đa dạng hóa các biện pháp điều tra, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu thập tài liệu, chứng cứ, chứng minh tội phạm.
Các nội dung liên quan:
- Nhận dạng và kiểm sát việc nhận dạng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự
- Về nhận dạng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
Chủ thể tiến hành và những người phải tham gia việc nhận biết giọng nói
Theo quy định tại Điều 191 BLTTHS năm 2015 thì chủ thể tiến hành nhận biết giọng nói là Điều tra viên (ĐTV). Viện kiểm sát, Tòa án, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không có thẩm quyền tiến hành biện pháp điều tra này. Cũng theo quy định tại khoản 2 Điều 191 BLTTHS năm 2015 thì những người sau đây phải tham gia việc nhận biết giọng nói:
(i) Giám định viên về âm thanh: Khi tiến hành nhận biết giọng nói, sự có mặt của Giám định viên âm thanh là bắt buộc. Thế nhưng, Điều luật này lại chưa quy định rõ liệu Giám định viên âm thanh phải ban hành kết luận giám định hay chỉ trình bày ý kiến và ý kiến của họ được ghi vào biên bản nhận biết giọng nói? Việc mời họ tham gia việc nhận biết giọng nói được thực hiện như thế nào?
(ii) Người được yêu cầu nhận biết giọng nói: Họ có thể là bị hại, người làm chứng hoặc người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Tuy Điều luật này không quy định rõ nhưng theo tác giả, người được yêu cầu nhận biết giọng nói phải đáp ứng các điều kiện sau:
Họ tham gia tố tụng với tư cách là bị hại, người làm chứng hoặc người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Nếu lựa chọn những người khác như nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự… làm người yêu cầu nhận biết giọng nói thì kết quả nhận biết giọng nói sẽ không có giá trị pháp lý và không được dùng làm chứng cứ giải quyết vụ án. Họ phải là người trực tiếp nghe được giọng nói của đối tượng nhận biết giọng nói trước đây. đây là một trong các cơ sở để ĐTV quyết định có tổ chức nhận biết giọng nói hay không; Họ phải là người có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình; Họ phải là người có khả năng nhận biết giọng nói. người có hạn chế về thính giác thì không thể nhận biết được giọng nói; Họ phải là người được ĐTV chọn để tham gia việc nhận biết giọng nói.
(iii) Người được đưa ra để nhận biết giọng nói, trừ trường hợp việc nhận biết giọng nói được thực hiện qua phương tiện ghi âm.
(iv) Người chứng kiến: Người chứng kiến tham gia để chứng kiến việc nhận biết giọng nói. Họ có trách nhiệm xác nhận nội dung, kết quả nhận biết giọng nói và có thể nêu ý kiến cá nhân. Ý kiến này được ghi vào biên bản. Những người không được làm người chứng kiến việc nhận biết giọng nói: Người có liên quan đến vụ án; người do nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức đúng sự việc; người dưới 18 tuổi…
Điều kiện, trình tự, thủ tục tiến hành nhận biết giọng nói
Khoản 1 Điều 191 BLTTHS năm 2015 quy định ĐTV tiến hành nhận biết giọng nói “khi cần thiết”. Song về trường hợp nào là cần thiết để tiến hành nhận biết giọng nói thì hiện nay chưa có văn bản nào hướng dẫn. Vậy nên, ĐTV cần xem xét đến các yếu tố cấu thành tội phạm, các vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự và các tình tiết khác (đặc điểm của giọng nói được đưa ra để nhận biết, khả năng nhận biết giọng nói của người được yêu cầu nhận biết giọng nói…) để quyết định có tiến hành biện pháp điều tra này hay không?
Theo quy định tại các điều 421, 420, 191, 178, 176, 133, 108, 88, 67, 42 BLTTHS năm 2015 và Điều 31 Quy chế tạm thời công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố ban hành kèm theo Quyết định số 03/2017/QĐ-VKSTC ngày 27/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Quy chế số 03), thì khi tiến hành nhận biết giọng nói, ĐTV cần phải thực hiện tốt các nội dung sau đây:
Trước khi tổ chức nhận biết giọng nói
Thứ nhất, ĐTV phải hỏi trước người được yêu cầu nhận biết giọng nói về những đặc điểm mà nhờ đó họ có thể nhận biết giọng nói (khoản 4 Điều 191).
Việc hỏi trước giúp cho người được yêu cầu nhận biết giọng nói có thời gian, điều kiện để nhớ lại các đặc điểm của giọng nói mà mình đã nghe, là cơ sở để kiểm tra, đánh giá lời khai của họ sau khi nhận biết giọng nói kết thúc và cũng để xác định lại việc có cần thiết tiến hành nhận biết giọng nói hay không. Tuy vậy, quy định trên dẫn đến hai cách hiểu khác nhau khi áp dụng. Cách hiểu thứ nhất, trong buổi nhận biết giọng nói, ĐTV phải hỏi người được yêu cầu nhận biết giọng nói, rồi sau đó mới cho họ bắt đầu nhận biết giọng nói. Cách hiểu thứ hai, ĐTV phải hỏi người được yêu cầu nhận biết giọng nói trước khi tiến hành nhận biết giọng nói (chẳng hạn như ĐTV hỏi người được yêu cầu nhận biết giọng nói trước khi tiến hành nhận biết giọng nói là 10 ngày).
Ngoài ra, việc hỏi người được yêu cầu nhận biết giọng nói phải lập biên bản ghi lời khai riêng hay được thể hiện ngay trong biên bản nhận biết giọng nói? Chúng tôi cho rằng, nếu thực hiện theo cách hiểu thứ nhất thì lời khai của người được yêu cầu nhận biết giọng nói cần phải được thể hiện trong biên bản nhận biết giọng nói; còn nếu thực hiện theo cách hiểu thứ hai thì ĐTV cần lập biên bản ghi lời khai theo quy định tại Điều 178 Bộ luật này.
Khi hỏi người được yêu cầu nhận biết giọng nói, ĐTV cần hỏi thật kỹ họ về các đặc điểm (nhất là các đặc điểm riêng biệt) mà nhờ đó họ có thể nhận biết được giọng nói; về các yếu tố khách quan, chủ quan trong khi họ lắng nghe giọng nói của đối tượng… Đây là cơ sở để kiểm tra, đánh giá kết quả nhận biết giọng nói.
Hai là, ĐTV phải thông báo việc tiến hành nhận biết giọng nói nói cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử KSV tham gia kiểm sát (khoản 1 Điều 191).
Với quy định này thì ĐTV có thể thông báo cho Viện kiểm sát ngay trước khi tiến hành nhận biết giọng nói hoặc trước khi nhận biết giọng nói một khoảng thời gian nhất định. Theo chúng tôi, thì nên quy định ĐTV phải thông báo trước cho Viện kiểm sát một thời gian hợp lý, địa điểm tiến hành nhận biết giọng nói để KSV có sự chủ động và có thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án, chuẩn bị kế hoạch kiểm sát.
Quy định này cũng chưa thể hiện rõ việc ĐTV phải thông báo trước cho Viện kiểm sát bằng văn bản hay hình thức
nào khác.
Ngoài ra, tác giả đặt ra vấn đề là có cần thiết quy định ĐTV phải thông báo cho Viện kiểm sát hay không? theo chúng tôi, khi được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án, KSV có nhiệm vụ, quyền hạn trực tiếp kiểm sát việc nhận biết giọng nói nên chỉ cần quy định ĐTV phải thông báo cho KSV, không cần thiết quy định ĐTV phải thông báo cho Viện kiểm sát để cử KSV tham gia kiểm sát.
Ba là, lựa chọn người tham gia việc nhận biết giọng nói.
Đối với người được yêu cầu nhận biết giọng nói, ĐTV cần lựa chọn những người trực tiếp nghe và họ còn nhớ rõ các đặc điểm riêng biệt trong giọng nói của đối tượng, đồng thời lưu ý đến các điều kiện như đã phân tích trên đây: Họ phải là người trực tiếp nghe được giọng nói của đối tượng nhận biết giọng nói trước đây; là người có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình…
Đối với người được đưa ra để nhận biết giọng nói, căn cứ vào lời khai của người được yêu cầu nhận biết giọng nói về đặc điểm của giọng nói mà trước đây họ đã nghe, ĐTV cần lựa chọn ít nhất 02 người không liên quan đến vụ án, tự nguyện tham gia việc nhận biết giọng nói và giọng nói của họ có âm sắc, âm lượng tương tự giọng nói của người mà trước đây người được yêu cầu nhận biết giọng nói đã nghe.
Đối với người chứng kiến việc nhận biết giọng nói: Khi lựa chọn người chứng kiến, ĐTV cần lưu ý đến các trường hợp không được làm người chứng kiến được quy định tại Điều 67 BLTTHS năm 2015.
(iv) Mời giám định viên âm thanh tham gia việc nhận biết giọng nói.
(v) Nếu người được yêu cầu nhận biết giọng nói là người dưới 18 tuổi thì ĐTV còn phải thông báo cho người bào chữa, người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ tham dự (Điều 420, 421 BLTTHS năm 2015).
Trong quá trình tiến hành nhận biết giọng nói
Điều tra viên phải kiểm tra thông tin cá nhân, tình trạng sức khỏe của người được yêu cầu nhận biết giọng nói và của những người được đưa ra để nhận biết giọng nói.
Nếu có người làm chứng hoặc bị hại tham gia thì trước khi tiến hành nhận biết giọng nói, ĐTV phải giải thích cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố tình khai báo gian dối. Việc này phải ghi vào biên bản nhận biết giọng nói (khoản 3 Điều 191). Có nhiều nguyên nhân (sợ bị trả thù, có mối quan hệ gia đình, bạn bè…) khiến người làm chứng hoặc bị hại từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố tình khai báo gian dối, làm ảnh hưởng đến kết quả của việc nhận biết giọng nói. Vậy nên, việc quy định như trên là cần thiết, bảo đảm sự đúng đắn trong lời khai của người làm chứng hoặc bị hại.
Nếu người được yêu cầu nhận biết giọng nói là người dưới 18 tuổi thì việc nhận biết giọng nói còn phải có sự tham dự của người bào chữa, người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Khi tiến hành nhận biết giọng nói, ĐTV cho bị hại, người làm chứng hoặc người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can nghe giọng nói của một số người để họ xác nhận đúng hay không giọng nói của người mà trước đây mình đã trực tiếp nghe.
Giọng nói được đưa ra để nhận biết bao gồm giọng nói chính (là giọng nói của người cần xác định có liên quan đến vụ án) và giọng nói tương tự (là giọng nói của người không có liên quan đến vụ án và phải có âm sắc, âm lượng tương tự giọng nói chính).
Điều luật này quy định số giọng nói được đưa ra để nhận biết ít nhất phải là ba là phù hợp. số giọng nói đưa ra quá nhiều sẽ làm cho người được yêu cầu nhận biết giọng nói mất tập trung, khó khăn trong nhận biết giọng nói. Ngược lại, số giọng nói đưa ra quá ít sẽ không được khách quan.
Nếu có nhiều người được yêu cầu nhận biết giọng nói cùng tham gia việc nhận biết giọng nói, thì ĐTV phải tổ chức nhận biết giọng nói riêng đối với từng người.
Việc nhận biết giọng nói nên tổ chức trong hoàn cảnh, điều kiện tương tự với hoàn cảnh, điều kiện mà người được yêu cầu nhận biết giọng nói đã tri giác (lắng nghe) trước đây.
Điều tra viên không được đặt câu hỏi gợi ý (khoản 4 Điều 191). Điều tra viên đặt câu hỏi gợi ý rất dễ làm cho người được yêu cầu nhận biết giọng nói khai báo theo ý của ĐTV, làm ảnh hưởng đến tính khách quan của kết quả nhận biết giọng nói.
Sau khi người được yêu cầu nhận biết giọng nói đã xác nhận được tiếng nói trong số giọng nói được đưa ra thì ĐTV yêu cầu họ giải thích là họ đã căn cứ vào đặc điểm gì mà xác nhận giọng nói đó. Trường hợp có sự khác nhau giữa lời khai trước và lời khai trong quá trình nhận biết giọng nói của người được yêu cầu nhận biết giọng nói, thì ĐTV cần phải yêu cầu họ giải thích thật kỹ lý do của sự khác nhau đó, xem xét, đánh giá thận trọng.
Kết thúc việc nhận biết giọng nói
Điều tra viên phải lập biên bản nhận biết giọng nói: Biên bản nhận biết giọng nói được lập theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này. Biên bản ghi rõ nhân thân, tình trạng sức khỏe của người được yêu cầu nhận biết giọng nói và của những người được đưa ra để nhận biết giọng nói; đặc điểm của giọng nói được đưa ra để nhận biết, lời trình bày của người nhận biết giọng nói; điều kiện về không gian khi thực hiện nhận biết giọng nói (khoản 5 Điều 191).
Điều tra viên phải chuyển biên bản nhận biết giọng nói cho Viện kiểm sát để kiểm sát trong trường hợp KSV không trực tiếp kiểm sát: Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày lập biên bản nhận biết giọng nói mà KSV không trực tiếp kiểm sát thì ĐTV có trách nhiệm chuyển biên bản này cho Viện kiểm sát để kiểm sát. Trường hợp do trở ngại khách quan thì thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 15 ngày (khoản 5 Điều 88).
kiểm tra, đánh giá kết quả nhận biết giọng nói: Điều tra viên kiểm tra, đánh giá riêng kết quả nhận biết giọng nói rồi sau đó xem xét sự phù hợp giữa kết quả nhận biết giọng nói với các chứng cứ khác đã thu thập được.
Kiểm sát việc nhận biết giọng nói
Khi tiến hành nhận biết giọng nói, KSV phải có mặt để kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Nếu KSV vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản nhận biết giọng nói (khoản 1 Điều 191). Quy định này nhằm nâng cao trách nhiệm của KSV, bảo đảm tính khách quan của hoạt động điều tra này.
Trên cơ sở quy định tại các điều 191, 166, 88, 42 Bộ luật này và Điều 31 Quy chế số 03 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, thì KSV cần quan tâm các nội dung sau nhằm thực hiện tốt công tác kiểm sát hoạt động này:
– Trong quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, nếu thấy cần thiết, KSV yêu cầu ĐTV tiến hành việc nhận biết giọng nói; nếu ĐTV không thực hiện thì KSV báo cáo lãnh đạo đơn vị, Lãnh đạo Viện để kiến nghị Cơ quan điều tra khắc phục (khoản 3 Điều 31 Quy chế số 03).
– Sau khi nhận được thông báo của ĐTV, KSV phải có mặt để trực tiếp kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Trường hợp KSV vắng mặt phải được sự đồng ý của lãnh đạo đơn vị, Lãnh đạo Viện và thông báo kịp thời cho ĐTV để ghi rõ trong biên bản nhận biết giọng nói (khoản 1 Điều 31 Quy chế số 03).
– Khi nhận được thông báo của ĐTV về việc tiến hành nhận biết giọng nói và được sự phân công của Lãnh đạo Viện kiểm sát, KSV cần nghiên cứu hồ sơ vụ án để xác định:
(i) Có cần thiết tiến hành nhận biết giọng nói hay không? Để xác định được, KSV nghiên cứu kỹ nội dung lời khai của người được yêu cầu nhận biết giọng nói về những đặc điểm mà nhờ đó họ nhận biết được giọng nói, khả năng nhận biết giọng nói của họ cũng như điều kiện, hoàn cảnh lúc họ trực tiếp nghe giọng nói…
(ii) Việc ĐTV lựa chọn người được yêu cầu nhận biết giọng nói, người được đưa ra để nhận biết giọng nói, người chứng kiến đã chính xác, đúng pháp luật hay chưa? Nếu có người chưa phù hợp thì KSV chủ động trao đổi với ĐTV để khắc phục.
(iii) Điều tra viên đã hỏi trước người được yêu cầu nhận biết giọng nói về những đặc điểm mà nhờ đó họ có thể nhận biết được giọng nói hay chưa? Nếu ĐTV chưa thực hiện thì KSV yêu cầu ĐTV thực hiện.
– Trường hợp cần thiết, KSV cũng nên cùng ĐTV trao đổi, thống nhất về kế hoạch tiến hành nhận biết giọng nói nhằm bảo đảm hoạt động này đạt kết quả tốt.
– Trường hợp trực tiếp kiểm sát việc nhận biết giọng nói, KSV cần phải kiểm sát các nội dung như: Kiểm sát việc ĐTV kiểm tra tình trạng sức khỏe của những người tham gia việc nhận biết giọng nói; Kiểm sát thành phần tham gia nhận biết giọng nói; Kiểm sát việc đặt câu hỏi của ĐTV và lời khai báo của người được yêu cầu nhận biết giọng nói. nếu phát hiện ĐTV đặt câu hỏi mang tính chất gợi ý đối với người được yêu cầu nhận biết giọng nói thì KSV phải yêu cầu ĐTV chấm dứt ngay hành vi đó; Kiểm sát việc ĐTV giải thích cho người làm chứng hoặc bị hại biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố ý khai báo gian dối khi họ là người được yêu cầu nhận biết giọng nói; Kiểm sát việc lập biên bản nhận biết giọng nói có tuân thủ đúng quy định tại khoản 5 Điều 191 Bộ luật này hay không?…
– Trường hợp không trực tiếp kiểm sát việc nhận biết giọng nói thì ngay sau khi nhận được biên bản nhận biết giọng nói mà ĐTV chuyển đến (trường hợp đã hết thời hạn quy định tại khoản 5 Điều 88 Bộ luật này mà ĐTV chưa chuyển biên bản nhận biết giọng nói cho Viện kiểm sát thì KSV yêu cầu ĐTV thực hiện), KSV cần:
(i) Kiểm sát tính cần thiết tiến hành biện pháp nhận biết giọng nói;
(ii) Kiểm sát hình thức của biên bản nhận biết giọng nói: Biên bản có được lập đúng mẫu quy định không? Trước khi tiến hành hoạt động này, ĐTV đã hỏi trước người được yêu cầu nhận biết giọng nói về các đặc điểm mà nhờ đó họ có thể nhận biết được giọng nói chưa? Nếu phát hiện ĐTV chưa hỏi hoặc việc hỏi tiến hành sau khi tổ chức việc nhận biết giọng nói thì phải yêu cầu ĐTV tiến hành lại hoạt động này theo đúng quy định của Bộ luật này; Kiểm sát về thẩm quyền tiến hành nhận biết giọng nói, việc kiểm tra sức khỏe của người tham gia, việc giải thích cho bị hại hoặc người làm chứng trách nhiệm về việc từ chối khai báo hoặc khai báo gian dối khi họ là người được yêu cầu nhận biết giọng nói;…
(iii) Kiểm sát nội dung của biên bản nhận biết giọng nói: Nghiên cứu nội dung câu hỏi mà ĐTV đặt ra cho người được yêu cầu nhận biết giọng nói để xác định có việc ĐTV đặt câu hỏi gợi ý hay không? Nghiên cứu lời khai báo của những người tham gia nhận biết giọng nói, so sánh với các chứng cứ, tài liệu khác của vụ án…
(iv) Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được biên bản nhận biết giọng nói do ĐTV chuyển đến, KSV đóng dấu bút lục và sao lưu biên bản lưu hồ sơ kiểm sát và bàn giao nguyên trạng biên bản cho ĐTV (khoản 5 Điều 88)./.
Nguyễn Cao Cường
VKSND huyện A Lưới, Thừa Thiên Huế.
(Tạp chí Kiểm sát số 10/2018)
Để lại một phản hồi