Một số bất cập của pháp luật bảo vệ môi trường về xử lý nước thải

Chuyên mụcLuật môi trường, Thảo luận pháp luật Nước thải

Tóm tắt: Xã hội ngày càng phát triển thì lượng chất thải sinh hoạt, công nghiệp cũng tăng lên theo cấp số nhân. Lượng thải ngày càng nhiều nhưng các hệ thống xử lý tập trung không đủ để giải quyết làm ô nhiễm nghiêm trọng môi trường nước. Thực trạng trên đòi hỏi Nhà nước ta cần có những biện pháp thích hợp để hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về xử lý nước thải, từng bước giảm thiểu ô nhiễm và bảo vệ môi trường nước.

 

Abstract: As society grows, the amount of domestic and industrial wastes also expands exponentially. The amount of wastes is getting more and more, but the centralized treatment systems are not enough to solve, together with the habit of discharging waste not to focus causing serious water pollution. The above situation requires the government to take appropriate measures to improve the relevant laws and improve the effectiveness of law enforcement on wastewater treatment, gradually reduce pollutions and protect the water environment.

 

Theo thống kê, mỗi năm có đến 9000 người chết, 100.000 trường hợp ung thư mà nguyên nhân chính là do sử dụng nguồn nước ô nhiễm. Tại 37 xã mang tên “làng ung thư” đã có 1.136 người chết vì các bệnh ung thư. Ngoài ra, còn có 380 người ở các xã lân cận cũng chết bởi ung thư[1]. Thực trạng trên đòi hỏi Nhà nước ta cần thực hiện đồng bộ các giải pháp kiểm soát xả thải cũng như xử lý nước thải, từng bước giảm thiểu ô nhiễm và bảo vệ môi trường nước. Có thể thấy rằng, từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới và mở cửa phát triển kinh tế đến nay, bên cạnh việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, Nhà nước ta cũng đã ban hành Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 và các văn bản pháp luật khác về bảo vệ môi trường, trong đó có các quy định về bảo vệ môi trường nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật bảo vệ môi trường nói chung và các quy định về xử lý môi trường nước thải nói riêng vẫn còn có bất cập.

1. Một số bất cập của pháp luật về bảo vệ môi trường

Thứ nhất, pháp luật bảo vệ môi trường còn bất cập, thiếu thống nhất trong hoạt động quản lý xả thải vào môi trường nước.

Tại Việt Nam, các quy định của pháp luật về xử lý chất ô nhiễm trước khi xả thải vào nguồn nước được điều chỉnh bởi Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 và Luật Tài nguyên nước năm 2012, cùng các văn bản pháp luật liên quan như Luật Thủy sản, Luật Đa dạng sinh học, Luật thủy lợi…

Xử lý nước thải

Từ góc độ quản lý có thể thấy, đối với một nguồn xả thải có tiềm năng gây ô nhiễm cho nguồn nước chịu sự điều chỉnh và quản trị của các cơ quan quản lý khác nhau, theo các luật khác nhau sẽ khó kiểm soát được toàn diện và triệt để. Ví dụ như việc cấp phép xả thải được phân ra theo nguồn nước trực tiếp nhận thải (nguồn tự nhiên) và nguồn phục vụ tưới tiêu. Giấy phép xả thải vào hệ thống nước tự nhiên do ngành tài nguyên và môi trường cấp[2], trong khi giấy phép xả nước thải vào công trình thủy lợi, trừ xả nước thải với quy mô nhỏ và không chứa chất độc hại, chất phóng xạ lại do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện[3]. Nghị định số 80/2014/NĐ-CP về thoát nước và xử lý nước thải cũng quy định quy chuẩn kỹ thuật về nước thải do các cơ quan nhà nước khác nhau ban hành. Cụ thể, nước thải từ các hộ thoát nước, khu công nghiệp xả vào hệ thống thoát nước đô thị phải bảo đảm các quy chuẩn kỹ thuật về nước thải do Bộ xây dựng ban hành; nước thải xử lý phi tập trung, căn cứ vào khả năng tiếp nhận và mục đích sử dụng của nguồn tiếp nhận do Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định. Còn nước thải từ hệ thống thoát nước đô thị, khu công nghiệp, khu dân cư nông thôn tập trung xả vào hệ thống công trình thủy lợi do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành[4]. Điều này gây xung đột với nguyên tắc nền tảng là hệ thống nước có sự kết nối tự nhiên theo dòng chảy và lưu vực. Ô nhiễm từ hệ thống thủy lợi kênh mương nội đồng hoàn toàn dễ dàng lưu chuyển vào hệ thống sông ngòi tự nhiên, việc cấp phép xả thải và quy chuẩn kỹ thuật nước thải như hiện nay không gắn kết với kiểm soát ô nhiễm nước nói chung. Bên cạnh đó, cơ quan cấp phép xả thải khác nhau, nhưng về kiểm soát, giám sát ô nhiễm nước chủ yếu lại là trách nhiệm của ngành tài nguyên và môi trường. Thế nhưng, Luật bảo vệ môi trường năm 2014 cũng chỉ quy định chung chung rằng “Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có quy mô xả thải lớn và có nguy cơ tác hại đến môi trường phải tổ chức quan trắc môi trường nước thải tự động và chuyển số liệu cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định của Bộ Tài nguyên và Môi trường”[5].

Bất cập của các quy định của pháp luật về quản lý hoạt động xả thải vào môi trường nước còn thể hiện rất rõ ở góc độ thực tiễn. Theo quy định hiện hành, các khu công nghiệp phải có hệ thống thu gom riêng nước mưa và hệ thống thu gom, xử lý nước thải tập trung đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Hệ thống xử lý nước thải phải bảo đảm đủ công suất xử lý toàn bộ lượng nước thải phát sinh của các cơ sở trong khu công nghiệp và phải được xây dựng, vận hành trước khi các cơ sở trong khu công nghiệp đi vào hoạt động. Các khu công nghiệp gần nhau có thể kết hợp sử dụng chung hệ thống xử lý nước thải tập trung[6]. Thế nhưng, trạm xử lý nước thải tập trung chỉ là đơn vị cung cấp dịch vụ theo hợp đồng, mối quan hệ giữa các trạm xử nước thải tập trung với doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp chỉ đơn thuần là cung cấp dịch vụ, doanh nghiệp không bắt buộc dùng. Còn làm thế nào để bắt buộc doanh nghiệp đấu nối về công tác xử lý nước thải thì không phải thuộc thẩm quyền của trạm mà thuộc các cơ quan chức năng và quy định về chế tài xử lý các doanh nghiệp trong khu công nghiệp không sử dụng hệ thống xử lý nước thải tập trung này hoàn toàn không có. Bên cạnh đó, các quy chuẩn về nước thải áp dụng với ngành nông nghiệp, đặc biệt là trong hoạt động chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản còn chưa hợp lý. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Quy chuẩn kỹ thuật nước thải chăn nuôi số QCVN 62-MT:2016/BTNMT. Quy chuẩn này quy định giá trị tối đa cho phép của các thông số ô nhiễm nước thải chăn nuôi khi xả ra nguồn tiếp nhận nước thải, chỉ áp dụng riêng cho nước thải chăn nuôi. Ví dụ, các hộ chăn nuôi cá thể, giá trị tối đa cho phép đối với tổng lượng nước thải lớn hơn hoặc bằng 5m3/ngày[7]. Việc xử lý nước thải chăn nuôi nhằm đạt Quy chuẩn QCVN 62-MT:2016/BTNMT đòi hỏi chi phí xử lý môi trường rất lớn cho các chủ trang trại, doanh nghiệp nhất là các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ và khó khăn trong việc tận dụng nước thải chăn nuôi đã qua xử lý làm phân bón hữu cơ.

Nước thải nuôi trồng thủy sản lại được các cơ quan quản lý nhà nước áp dụng theo Quy chuẩn nước thải công nghiệp QCVN 40:2011/BTNMT (cho các cơ sở sản xuất công nghiệp…) gây khó khăn trong quản lý và khó khăn cho doanh nghiệp. QCVN 40:2011/BTNMT được xây dựng và ban hành để áp dụng cho nước thải của các nhà máy sản xuất công nghiệp nên có 33 thông số ô nhiễm cần kiểm soát, quá phức tạp khi lựa chọn áp dụng đối với nước thải nuôi trồng thủy sản không nằm trong khu công nghiệp. Các quy chuẩn được đặt ra cần phải đáp ứng yêu cầu hội nhập, song cũng phải phù hợp với yêu cầu thực tiễn, hài hòa giữa lợi ích của nhà sản xuất và lợi ích quốc gia, bảo vệ môi trường và sức khỏe của cộng đồng.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng gặp một vướng mắc khác liên quan đến nước thải ao nuôi cá tra. Hiện ngành Tài nguyên và Môi trường không đồng ý áp dụng quy chuẩn QCVN 02-20:2014/BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về cơ sở nuôi cá trong ao, điều kiện bảo đảm vệ sinh thú y, bảo vệ môi trường và an toàn thực phẩm, mà yêu cầu nước thải của hoạt động nuôi cá tra phải đạt các chỉ tiêu ô nhiễm theo giới hạn quy định tại cột A QCVN 40:2011/BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp được ban hành kèm theo Thông tư số 47/2011/TT-BTNMT ngày 28/12/2011 của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Điều kiện xử lý nước thải trong quá trình nuôi cá tra không phù hợp và khả thi cho phương án đầu tư hệ thống xử lý nước thải theo quy trình xử lý với thiết bị công nghiệp như ở các nhà máy chế biến thuỷ sản. Do đó, chất lượng nước thải từ ao nuôi cá tra trước khi thải ra môi trường bên ngoài yêu cầu có các chỉ tiêu gây ô nhiễm theo giới hạn cột A của QCVN 40:2011/BTNMT là rất khắt khe, khó đạt được.

Do vậy, cần sớm có khung pháp lý thống nhất, nhằm giúp các đối tượng chịu sự điều chỉnh không phải tìm hiểu và áp dụng quá nhiều văn bản pháp luật liên quan; đồng thời các cơ quan quản lý môi trường cũng thuận lợi hơn trong công tác quản lý; tránh chồng chéo và thiếu sự hợp tác chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương.

Thứ hai, việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường nước còn chưa đủ mạnh, dẫn đến hạn chế tác dụng giáo dục, phòng ngừa, răn đe đối với những hành vi xâm hại môi trường.

Hiện nay, đối với các vi phạm quy định về bảo vệ môi trường nói chung, hệ thống pháp luật nước ta quy định 2 mức xử lý, bao gồm xử phạt hành chính và xử lý hình sự. Tuy nhiên, quy định về xử lý các hành vi vi phạm pháp luật môi trường nước còn hạn chế, nằm rải rác trong các văn bản luật khác nhau. Bản thân Luật bảo vệ môi trường năm 2014 có thiết kế một chương riêng về bồi thường thiệt hại nhưng chưa có quy định cụ thể xác định thiệt hại về môi trường nước, phục hồi hiện trạng môi trường nước. Kể cả nghị định số 03/2015/NĐ-CP của Chính phủ về xác định thiệt hại môi trường cũng chưa có quy định về xác định thiệt hại môi trường nước nên khó áp dụng trên thực tiễn. Điều 160 Luật bảo vệ môi trường năm 2014 quy định về xử lý vi phạm có dẫn chiếu tới pháp luật liên quan nhưng bản thân các chế tài xử lý khác được quy định trong các văn bản luật cũng còn nhiều bất cập. Có thể kể đến như về trách nhiệm hình sự, tội gây ô nhiễm môi trường được quy định trong Bộ luật Hình sự từ năm 1999 đến nay. Theo quy định của Bộ luật này và Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì tội này cấu thành vật chất tức là phải có hậu quả nghiêm trọng xảy ra mới bị truy cứu nên cũng gây khó khăn cho quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm bởi thực tế cho thấy việc xác định thiệt hại do ô nhiễm môi trường nước là không dễ dàng, đặc biệt là khó xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây ô nhiễm môi trường nước và thiệt hại xảy ra. Do vậy, cho đến nay chưa có một cá nhân nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Hiện nay, Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, tội gây ô nhiễm môi trường có điểm mới là chuyển sang cấu thành hình thức, tức là chỉ cần có hành vi xả nước thải vượt quá quy chuẩn kỹ thuật là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự[8]. Mặc dù vậy, theo quy định thì hành vi xả thải phải đạt một tải lượng nhất định thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, quy định này khó ở chỗ việc xác định tải lượng này với môi trường nước là không hề dễ dàng. Về trách nhiệm kỷ luật với cán bộ, công chức quản lý nhà nước về môi trường cũng chưa được quy định rõ ràng và thực tiễn áp dụng chưa thật khách quan, công khai, minh bạch. Về xử phạt hành chính với hành vi làm ô nhiễm môi trường nước ngày càng hoàn thiện hơn nhưng mức xử phạt với một hành vi vi phạm của các tổ chức, cá nhân làm ô nhiễm môi trường nói chung, trong đó có môi trường nước vẫn còn thấp, mức phạt tiền tối đa đối với một hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là 1.000.000.000 đồng đối với cá nhân và 2.000.000.000 đồng đối với tổ chức[9]. Thực tiễn cho thấy cũng chưa chủ nguồn thải nào phải chịu mức phạt cao nhất này nên chưa đảm bảo tính răn đe, thậm chí có trường hợp cá nhân, pháp nhân chấp nhận nộp phạt để vi phạm. Ví như vụ việc Công ty Cổ phần Vedan Việt Nam, có trụ sở tại Đồng Nai, xả thải trực tiếp xuống sông Thị Vải (tháng 10-2008) bị xử phạt hành chính 267 triệu đồng, trong khi phí bảo vệ môi trường truy thu với lượng nước thải đã xả trái phép là 127 tỷ đồng; buộc công ty phải đầu tư hàng chục triệu USD để nâng cấp công nghệ, bảo đảm nước thải đạt quy chuẩn môi trường[10]. Như vậy, số tiền truy thu và yêu cầu khắc phục hậu quả cao hơn nhiều so với mức xử phạt vi phạm hành chính. Trong 10 năm tới, nếu GDP của Việt Nam tăng gấp đôi mà không quan tâm đúng mức đến công tác bảo vệ môi trường thì ô nhiễm môi trường sẽ tăng lên 3 lần, đến năm 2025 có thể gấp 4-5 lần. Trung bình GDP cứ tăng 1% thì thiệt hại do ô nhiễm môi trường sẽ làm mất đi 3% GDP[11]. Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức về quản lý và xử lý nước thải nếu không có các chế tài xử lý vi phạm mạnh tay hơn. Thực trạng ô nhiễm môi trường ở nước ta đang ở mức báo động, vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường diễn biến phức tạp, gây hậu quả nghiêm trọng. Nguyên nhân của tình trạng này do chế tài xử phạt còn chung chung, mức xử phạt vi phạm hành chính còn thấp, chưa đủ sức răn đe. Do vậy, cần bổ sung chế tài xử phạt vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường cụ thể, cứng rắn hơn.

Thứ ba, quy định về phí bảo vệ môi trường chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường nước.

Theo pháp luật hiện hành, cụ thể tại Điều 148 Luật bảo vệ môi trường năm 2014 phí bảo vệ môi trường được quy định chung cho tất cả các hành vi xả thải:

1. Tổ chức, cá nhân xả thải ra môi trường hoặc làm phát sinh tác động xấu đối với môi trường phải nộp phí bảo vệ môi trường.

2. Mức phí bảo vệ môi trường được quy định trên cơ sở sau:

a) Khối lượng chất thải ra môi trường, quy mô ảnh hưởng tác động xấu đối với môi trường;

b) Mức độ độc hại của chất thải, mức độ gây hại đối với môi trường;

c) Sức chịu tải của môi trường tiếp nhận chất thải.

3. Mức phí bảo vệ môi trường được điều chỉnh phù hợp với yêu cầu bảo vệ môi trường và điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước trong từng giai đoạn”.

Việc nộp, quản lý và sử dụng phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp được quy định cụ thể tại nghị định số 154/2016/NĐ-CP về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải. Theo đó, mức phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt là 10% trên giá bán của 1m3 nước sạch chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng. Trường hợp cần thiết áp dụng mức thu cao hơn, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định mức cụ thể phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương. Đối với nước thải sinh hoạt thải ra từ các tổ chức, hộ gia đình tự khai thác nước để sử dụng (trừ hộ gia đình thuộc trường hợp được miễn phí), mức phí được xác định theo từng người sử dụng nước căn cứ vào số lượng nước sử dụng bình quân của một người trong xã, phường, thị trấn nơi khai thác và giá bán 1m3 nước sạch trung bình tại xã, phường, thị trấn. Đối với các hộ gia đình sử dụng nước cấp từ hệ thống cấp nước tập trung, việc đóng phí bảo vệ môi trường đối với nước thải hoặc đóng phí dịch vụ thoát nước đều đóng cho đơn vị cung cấp nước sạch. Các đối tượng chịu phí khác sẽ do các Sở tài nguyên và môi trường hoặc chủ sở hữu hệ thống thoát nước tính toán, xác định và trực tiếp thu. Như vậy, cần phải xác định thêm cơ quan trả lương cho đội ngũ thu phí và ban hành cơ chế vận hành cho đội ngũ thu phí.

Cũng theo Nghị định này đối với nước thải thì nước thải từ các cơ sở chăn nuôi, giết mổ gia súc, gia cầm tập trung; nuôi trồng thủy sản; khai thác khoáng sản được quy định là đối tượng chịu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế rất khó có thể xác định được quy mô tập trung như thế nào thì phải nộp phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp. Tại các vùng nông thôn, hầu hết các cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm hay nuôi trồng thủy sản chủ yếu chỉ ở quy mô nhỏ lẻ, manh mún, lượng nước thải phát sinh cũng không lớn, nên sẽ rất khó khăn nếu buộc nông dân phải kham thêm khoản phí cố định 1,5 triệu đồng/năm. Ngoài ra, trong hoạt động khai thác khoáng sản, nước thải từ khai thác khoáng sản chủ yếu là nước mưa hoặc với các loại hình như khai thác cát thì không sử dụng nước nhưng lại nằm trong đối tượng phải nộp phí bảo vệ môi trường với nước thải. Điều này khiến cho các chủ doanh nghiệp bức xúc, các ngành chức năng khó khăn trong việc tính toán lưu lượng nước thải và áp dụng mức thu cho các đơn vị này.

Thêm vào đó, dưới góc độ thực tiễn, có thể thấy những nghị định về thu phí bảo vệ môi trường với nước thải có phạm vi áp dụng quá rộng mà lực lượng của các Chi cục Bảo vệ môi trường lại ít, nên rất khó có thể rà soát đúng và đủ danh sách thuộc diện thu phí.

Thứ tư, quy định về thông tin tình hình môi trường nước chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển.

Với các thông tin cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm công bố thì Nhà nước cung cấp thông tin gì thì người dân biết thông tin đó và thực tế cho thấy thông tin từ kênh này chưa nhiều và chưa kịp thời, chưa đáp ứng được mong mỏi của người dân[12]. Ví dụ như theo Điều 131 Luật bảo vệ môi trường năm 2014, có 5 nhóm thông tin môi trường phải được công khai bao gồm: (a) Báo cáo đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường; (b) Thông tin về nguồn thải, chất thải, xử lý chất thải; (c) Khu vực môi trường bị ô nhiễm, suy thoái ở mức nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, khu vực có nguy cơ xảy ra sự cố môi trường; (d) Các báo cáo về môi trường; và (đ) Kết quả thanh tra, kiểm tra về bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, nếu “các thông tin quy định tại khoản này mà thuộc danh mục bí mật nhà nước thì không được công khai”. Cá nhân tác giả cho rằng thông tin hạn chế tiếp cận cần được quy định cụ thể, phù hợp với Hiến pháp năm 2013 như đảm bảo quyền tiếp cận thông tin nhưng đồng thời đảm bảo sự an toàn thông tin về bí mật nhà nước, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư, bí mật cá nhân… nhằm bảo vệ an toàn tính mạng, sức khoẻ của con người, bảo vệ lợi ích cộng đồng, tránh việc lạm dụng dẫn tới vi phạm các quyền bí mật được pháp luật bảo vệ. Luật cũng quy định tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chủ thể sản xuất kinh doanh phải cung cấp thông tin về tình hình môi trường, nhưng theo Luật thì cá nhân lại không có quyền trực tiếp thực hiện quyền này mà phải thông qua tổ chức hoặc đại diện cộng đồng dân cư[13]. Chúng ta hoàn toàn hiểu rằng tổ chức chính trị xã hội, xã hội nghề nghiệp, tổ chức quốc tế phi chính phủ, cộng đồng dân cư có vai trò đặc biệt quan trọng trong kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung và ô nhiễm môi trường nước nói riêng, nhưng không thể phủ nhận quyền chủ động tiếp cận thông tin của từng cá nhân riêng lẻ bởi bảo vệ môi trường trước hết phải từ mỗi cá nhân. Thêm vào đó, mặc dù Luật Bảo vệ Môi trường đã phần nào ghi nhận trách nhiệm của các tổ chức nêu trên, nhưng chưa có những quy định cụ thể nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò các chủ thể này vào giám sát, kiểm soát ô nhiễm môi trường nước. Pháp luật môi trường hiện hành chưa thể hiện được vai trò của tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư trong tham vấn về đánh giá tác động môi trường, trong giám sát việc thực hiện pháp luật môi trường. Đặc biệt Luật chưa dành quyền giám sát các cơ quan nhà nước, các chủ thể có thẩm quyền quản lý nhà nước về môi trường cho các đối tượng này. Theo đó, pháp luật nên xác định bảo vệ môi trường là trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi tổ chức, cá nhân và tiếp cận thông tin là điều kiện cần để thực hiện điều này. Muốn vậy, cần bổ sung một điều khoản riêng, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia giám sát hoạt động bảo vệ môi trường và nêu rõ trách nhiệm của từng cá nhân, đơn vị.

2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi về xử lý nước thải

Một là, bổ sung quy định tại Điều 100 Luật bảo vệ môi trường 2014 về các biện pháp xử lý nước thải bằng các biện pháp khác, ví dụ như biện pháp hóa học hay biện pháp sinh học. Bởi vì, đặc thù của pháp luật xử lý nước thải nói riêng có liên quan đến các chỉ số, thông số kỹ thuật chính xác cho nên khi thực tế các doanh nghiệp áp dụng phương pháp hóa học vào xử lý nước thải mà áp dụng sai thông số sẽ có thể gây ra các phản ứng hoặc hiện tượng hóa học nguy hiểm, từ đó càng tạo ra những chất thải độc hại khi xả ra môi trường. Do đó, việc bổ sung thêm quy định về các phương pháp xử lý nước thải khác là vô cùng cần thiết để các cơ sở sản xuất kinh doanh có thể áp dụng và thực hiện theo.

Hai là, cá nhân tác giả cho rằng, trách nhiệm người quản lý môi trường cần được quy định rõ ràng, cụ thể hơn. Đồng thời, cần có hệ thống cấp phép xả thải tập trung quốc gia với sự quản lý thống nhất, dựa vào nền tảng công nghệ, năng lực và cơ chế kiểm tra chặt chẽ, khoa học; tránh tình trạng quản lý theo kiểu hành chính và sự tham gia còn nặng về hình thức của các bộ, ngành. Bên cạnh đó, cần sửa đổi, bổ sung các văn bản hiện hành quy định về vấn đề xử lý nước thải tại các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong Luật bảo vệ môi trường năm 2014 để khắc phục tính thiếu nhất quán, không cụ thể, không rõ ràng; tạo nên sự thống nhất trong hệ thống pháp luật cũng như góp phần làm tăng thêm tính hiệu quả, tính khả thi của pháp luật; bám sát thực tế và theo kịp tiến trình phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước và mức độ phức tạp về vấn đề nước thải và xử lý nước thải.

Ba là, tiếp tục sửa đổi Luật bảo vệ môi trường năm 2014 và các quy định liên quan đến xử lý vi phạm trong quá trình xả thải nước thải. Đồng thời, phát huy đồng bộ sức mạnh của các biện pháp hành chính, hình sự, dân sự, kinh tế trong việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về xả thải vướt mức tiêu chuẩn cho phép, đặc biệt là các biện pháp kinh tế để bảo đảm sự hài hoà giữa phát triển kinh tế và yêu cầu bảo vệ nguồn nước và bảo vệ môi trường nói chung. Bên cạnh đó, việc ban hành các văn bản pháp luật cần có sự đồng bộ, ổn định, có tính điều chỉnh và răn đe cao hơn nữa, đặc biệt là các quy định về thuế, phí môi trường và các văn bản quy định về vấn đề xử lý nước thải của các cơ sở sản xuất kinh doanh. Cụ thể, các văn bản quy định về phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội,… phải thể hiện được sự nhất quán với các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, pháp luật về xử lý nước thải và ngược lại bằng cách thêm các điều luật đánh phí – thuế môi trường đối với các doanh nghiệp sử dụng tiêu chuẩn hóa học, sinh học để xử lý nước thải tại cơ sở sản xuất kinh doanh của mình.

Tác giả cho rằng để nâng cao hiệu quả kiểm soát xả thải môi trường nước ở Việt Nam trong tổng thể các giải pháp, trước mắt cần nghiên cứu bổ sung, chỉnh sửa, những thiếu sót trong các quy định của pháp luật hiện hành về kiểm soát xả thải môi trường nước như trình bày ở trên. Bên cạnh việc hoàn thiện các quy định của pháp luật, đòi hỏi Nhà nước ta cần tiếp tục tăng cường đầu tư xây dựng hạ tầng thoát nước, thu gom và xử lý nước thải sinh hoạt, nước thải từ hoạt động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp. Đồng thời, nâng cao công tác kiểm soát xả thải; tăng cường thanh, kiểm tra và xử lý nghiêm các cơ sở vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân về bảo vệ môi trường nói chung, bảo vệ môi trường nước nói riêng; tăng cường xã hội hóa, huy động sự tham gia của các tổ chức, đoàn thể, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và nhân dân trong công tác vệ sinh môi trường, nạo vét, khơi thông cống rãnh thoát nước, xử lý ô nhiễm môi trường tại các đầm, hồ v.v../.

ThS. TẠ THỊ THÙY TRANG

Trường Đại học Thương mại

Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 23 (399), tháng 12/2019


[1] Xem www.doisongphapluat.com/tin-lienquan/cong-bo-10-lang-ung-thu-co-nguon-nuoc-o-nhiem-nang-nhat-o-viet-nam-81945.html.

[2] Điều 73 Luật tài nguyên nước năm 2012.
[3] Điều 44 Luật Thủy lợi năm 2017.
[4] Điều 4 Nghị định số 80/2014/NĐ-CP về thoát nước và xử lý nước thải.
[5] Điều 101 Luật bảo vệ môi trường năm 2014.
[6] Điều 37 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP về quản lý chất thải và phế liệu.
[7] Phần 2.1 QCVN 62-MT: 2016/BTNMT.
[8] Điều 235, Luật hình sự năm 2015.
[9] Điều 4 Nghị định 155/2016/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
[10] http://www.sggp.org.vn/ket-luan-cua-bo-tnmt-ve-viec-cong-ty-vedan-xa-nuoc-thai-o-nhiem-ra-moi-truong-vedan-phai-nop-hon-127-ty-dong-phi-moi-truong-96864.html.
[11]https://dantri.com.vn/xa-hoi/10-nam-toi-gdp-tang-gap-doi-nhung-o-nhiem-moi-truong-co-the-tang-gap-3-20150930162622829.htm .
[12]Khoản 20 Điều 3 và Điều 131 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014.

[13]Điều 145, Điều 146 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 và Nghị định số 19/2015 về hướng dẫn chi tiết một số Điều của Luật Bảo vệ môi trường năm 2014.

đánh giá bài viết

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền