Tóm tắt: Hiện thực hóa các quy định về phụ nữ tham chính ở nước ta trong giai đoạn hiện nay cần phải được đẩy mạnh theo chiều sâu nhằm đảm bảo quyền lợi của phụ nữ được thực thi đầy đủ trên thực tế. Điều này cho thấy vấn đề phụ nữ tham chính không chỉ là quyết tâm chính trị của Đảng cầm quyền mà cần phải được triệt để thi hành bằng các biện pháp quản lý nhà nước nhằm hiện thực hóa chúng trên thực tế.
Abstract: Enforcement of the regulations on key participation of the women in the current period must be strengthened in depth to ensure that the women’s interests are fully implemented in reality. It is to demonstrate that the key participation of the women is not only the political determination of the ruling Party but also it must be thoroughly enforced by the measures of the government management so that it is carried out in reality.
1. Chủ trương, đường lối và chính sách, pháp luật về phụ nữ tham chính
Nâng cao quyền của phụ nữ trong đời sống chính trị – xã hội là một cam kết chính trị của Đảng và Nhà nước Việt Nam với nhân dân và thế giới. Trong chủ trương, đường lối và chính sách, pháp luật, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến vấn đề phát triển phụ nữ như là một giải pháp phát triển xã hội bền vững, là tương lai tốt đẹp của đất nước.
Đối với vấn đề phát triển phụ nữ nói chung, Nghị quyết số 11/NQ-TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam (Nghị quyết số 11/NQ-TW) đã chỉ rõ “Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý có tỷ lệ thấp, chưa tương xứng với năng lực và sự phát triển của lực lượng lao động nữ, nguồn cán bộ nữ hẫng hụt, ở một số lĩnh vực, tỷ lệ cán bộ nữ sụt giảm”.
Để tạo lập sự bình đẳng thực sự, khoản 1 và khoản 3 Điều 26 của Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới” và “Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”. Để tạo lập quyền được ưu tiên, khoản 2 Điều 26 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội”. Từ đạo luật cơ bản này, sự bình đẳng và quyền được ưu tiên của phụ nữ đã được thiết lập. Đây là cơ sở pháp lý vững chắc nhất cho mọi hoạt động lập pháp và thực thi pháp luật trong bảo đảm sự bình đẳng và bảo đảm sự ưu tiên đối với phụ nữ trên thực tế.
Trong những năm vừa qua, nhận thức của xã hội về vấn đề bình đẳng giới đã có những biến đổi theo chiều hướng tích cực. Hoạt động lập pháp đã cân nhắc đến nhiều yếu tố nhằm đảm bảo quyền bình đẳng giữa nam và nữ trước pháp luật, từng bước hình thành và nâng cao nhận thức trong mọi giai tầng xã hội nhằm xoá bỏ quan điểm, tâm lý và thực trạng phân biệt đối xử bất bình đẳng giới trong công việc, trong đời sống chính trị, văn hoá – xã hội và trong từng gia đình. Đối với người phụ nữ, do có điểm đặc biệt là mang thiên chức làm mẹ – đặc tính này không có ở đàn ông (tự nhiên), nên luật pháp đã tính đến sự ưu tiên, ưu đãi trên một số phương diện mà người phụ nữ dễ chịu sự tác động từ thiên chức của mình như trong tuyển dụng, bố trí công việc, thời gian giờ giấc làm việc, độ tuổi hưởng bảo hiểm xã hội, thành lập các quỹ hỗ trợ vay vốn ưu đãi, hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, thậm chí là cả ưu ái trong xử lý hình sự khi phụ nữ vi phạm pháp luật… Các quy định này có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ có cơ hội thể hiện khả năng của mình để phát triển trong công việc, đồng thời tạo chuyển biến về nhận thức của xã hội đối với vị trí, vai trò của người phụ nữ để phụ nữ có thể đóng góp ngày càng nhiều cho gia đình, xã hội, đất nước và loài người[1].
Bên cạnh đó, các quy định trong Công ước quốc tế về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (Công ước CEDAW) đã được từng bước nội luật hoá trong quá trình xây dựng pháp luật và các chính sách có liên quan đến phụ nữ. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam xuất hiện ngày càng nhiều các luật có liên quan đến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ như: Luật Bình đẳng giới năm 2006; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007; Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Bộ luật Hình sự năm 2015 và sửa đổi, bổ sung năm 2017; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015… và nhiều luật khác. Trong các văn bản luật trên đây, quyền của phụ nữ, trẻ em gái đã được ghi nhận, về cơ bản đảm bảo sự phù hợp với Công ước CEDAW, cũng như truyền thống pháp lý tốt đẹp của dân tộc nhằm hướng tới đạt mục tiêu và các chỉ tiêu bình đẳng giới thực chất giữa nam và nữ mà chiến lược quốc gia về bình đẳng giới đã đặt ra.
2. Thực trạng về phụ nữ tham chính ở nước ta hiện nay
Nghị quyết số 11/NQ-TW đưa ra chủ trương: “Phấn đấu đến năm 2020, cán bộ nữ tham gia cấp ủy đảng các cấp đạt từ 25% trở lên; nữ đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp từ 35% đến 40%. Các cơ quan, đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30% trở lên, nhất thiết có cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ. Cơ quan lãnh đạo cấp cao của Ðảng, Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ có tỷ lệ nữ phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới”. Trước khi có chủ trương này, Quyết định số 19/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 21/01/2002 về việc Phê duyệt chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010, cũng đã đặt ra các chỉ tiêu cụ thể như: “Phấn đấu đạt tỷ lệ nữ tham gia HĐND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nhiệm kỳ 2004-2009 là 28% và nhiệm kỳ tiếp theo là 30%; cấp quận, huyện nhiệm kỳ 2004-2009 là 23% và nhiệm kỳ tiếp theo là 25%; cấp xã, phường nhiệm kỳ 2004 – 2009 là 18% và nhiệm kỳ tiếp theo là 20%”[2]. “Phấn đấu đạt tỷ lệ 50% cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội ở Trung ương và địa phương có nữ tham gia ban lãnh đạo vào năm 2010”[3]. Tuy nhiên, cho đến năm 2007, tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý vẫn rất thấp, bị hẫng hụt, sụt giảm về số lượng như trong Nghị quyết số 11/NQ-TW đã chỉ rõ. Đến năm 2017, theo Báo cáo tóm tắt việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới của Chính phủ thì trong 22 chỉ tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020 (Chiến lược quốc gia 2011 – 2020) thì chỉ có 8 chỉ tiêu dự kiến sẽ đạt vào năm 2020[4] và có “02 chỉ tiêu thực hiện theo nhiệm kỳ 2016 – 2021 không đạt gồm: Chỉ tiêu nữ tham gia các cấp uỷ Đảng, đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp và chỉ tiêu lãnh đạo chủ chốt là nữ”[5]. Hai chỉ tiêu trong Báo cáo này của Chính phủ đã phản ánh rõ thực trạng nhiều quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước chưa được thực sự đi vào cuộc sống ở cả cấp trung ương, bộ ngành, địa phương. Quy định về tỷ lệ % phụ nữ tham chính trong xây dựng đảng, chính quyền nhà nước đã không được đảm bảo ở nhiều địa phương. Cụ thể, trong các hoạt động bầu, cử vào các cơ quan Đảng, chính quyền nhà nước: “nhiều nơi, không có cán bộ nữ được bầu giữ các chức danh bí thư, phó bí thư như Cao Bằng, Điện Biên, Đắk Nông, Quảng Bình, Vĩnh Long… Một số đảng bộ như Thái Bình, Khánh Hòa, Hậu Giang, Bình Định không có cán bộ nữ tham gia ban thường vụ”[6].
Trong Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020 đã đặt ra 7 mục tiêu và mục tiêu đầu tiên là tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo, nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị. Trong đó, chỉ tiêu 1 của mục tiêu này là: Phấn đấu đạt tỷ lệ nữ tham gia các cấp ủy Đảng nhiệm kỳ 2016 – 2020 từ 25% trở lên; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011 – 2015 từ 30% trở lên và nhiệm kỳ 2016 – 2020 trên 35%. Tuy nhiên, các con số trong bảng thống kê dưới đây cho thấy thực tế diễn biến rất chậm chạp:
– Tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy (cấp tỉnh, huyện, xã)[7]:
Nội dung | Nhiệm kỳ
2006- 2010 |
Nhiệm kỳ
2010- 2015 |
Nhiệm kỳ
2015-2020 |
||||||
Tỉnh | Huyện | Xã | Tỉnh | Huyện | Xã | Tỉnh | Huyện | Xã | |
Ủy viên Ban Thường vụ | 7,9 | 7,8 | 5,8 | 8,3 | 10,2 | 9,1 | 10,7 | 12,0 | 10,7 |
Ủy viên Ban Chấp hành | 11,8 | 14,7 | 14,4 | 11,3 | 15,2 | 18,0 | 13,3 | 14,3 | 19,69 |
Bảng thống kê trên đây cho thấy tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy các cấp cơ bản khóa sau tăng hơn khóa trước nhưng tăng chậm và tỷ lệ không có tính tăng đột biến. Trong đó tỷ lệ nữ tham gia cấp uỷ cấp xã nhiệm kỳ 2015 – 2020 đã đạt mức gần 20% (tăng khoảng 2% so với nhiệm kỳ trước đó). Tuy nhiên, tỷ lệ nữ cán bộ trong cơ quan trọng yếu nhất của đảng ở cấp trung ương cũng vẫn rất thấp. Tham gia cấp uỷ Bộ Chính trị, nữ uỷ viên Bộ Chính trị mới chỉ đạt 3/19 uỷ viên[8] và tham gia Ban chấp hành Trung ương đảng là 15 uỷ viên nữ (đạt 7,8%)[9]so với uỷ viên nam là 166 người (đạt 92,2%).
Các con số thống kê trên đây cho thấy, chúng ta còn phải nỗ lực, phấn đấu trong thời gian khá dài nữa mới có thể đạt chỉ tiêu mà Nghị quyết số 11/NQ-TW và Chiến lược quốc gia 2011 – 2020 đã đề ra là 25% phụ nữ tham gia cấp uỷ đảng.
– Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp[10]:
Nội dung | Nhiệm kỳ 2007 – 2011 | Nhiệm kỳ 2011 – 2016 | Nhiệm kỳ
2016 – 2021 |
Số nữ đại biểu Quốc hội/ Tỷ lệ (%) | 127/25,8 | 122/24,4 | 132/26,8 |
Tỷ lệ nữ đại biểu HĐND các cấp | |||
Cấp tỉnh/thành | 23,9 | 25,2 | 26,6 |
Cấp quận/huyện/thị xã | 23,0 | 24,6 | 27,5 |
Cấp xã/phường/thị trấn | 19,5 | 21,7 | 26,6 |
Nhiệm kỳ năm 2016 – 2021, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội đạt trên 25% nhưng có 3 tỉnh không có nữ đại biểu Quốc hội (Quảng Nam, Tây Ninh, Thừa Thiên – Huế) và 25 tỉnh có tỷ lệ nữ đại biểu dưới 20%. Thực tế này cho thấy, mục tiêu của Đảng và Nhà nước về bình đẳng giới vẫn chưa có bước phát triển vững chắc và cũng chưa đồng đều trong các địa phương của cả nước. Tuy nhiên, nhiệm kỳ Quốc hội 2016 – 2021, lần đầu tiên Việt Nam có đại biểu nữ nắm giữ vị trí Chủ tịch Quốc hội[11] – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Đây là tín hiệu đáng mừng cho việc hiện thực hoá các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về đảm bảo quyền tham chính của phụ nữ.
– Tỷ lệ phụ nữ là thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ nhiệm Ủy ban trong Quốc hội qua các nhiệm kỳ:
Chức vụ | Nhiệm kỳ | |||
2002 – 2007[12] | 2007 – 2011[13] | 2011 – 2016[14] | 2016 – 2021[15] | |
Thành viên Ủy ban Thường vụ | 22,2 | 15,76 | 23,53 | 27,7 |
Chủ nhiệm Ủy ban | 25,0 | 22,22 | 11,11 | 25,0 |
Tỷ lệ phụ nữ tham gia Quốc hội và HĐND các cấp, trong nhiệm kỳ 2016 – 2021 tăng hơn nhiệm kỳ trước, tuy nhiên tỷ lệ trên vẫn chưa đạt mục tiêu đề ra trong Chiến lược quốc gia 2011 – 2020 là trên 35% và ở các vị trí chủ chốt như Chủ nhiệm/Phó Chủ nhiệm Ủy ban, cán bộ chuyên trách, tỷ lệ phụ nữ vẫn ít hơn nhiều so với nam giới.
Mặc dù chưa đạt chỉ tiêu đề ra trong Nghị quyết số 11/NQ-TW và Chiến lược quốc gia 2011 – 2020 nhưng những con số trên đây cũng cho thấy, so với thế giới, Việt Nam đã có những phát triển khá tốt về thực hiện bình đẳng giới và tăng tỷ lệ tham chính của phụ nữ năm 2018: “tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội Việt Nam hiện nay đã tăng lên mức 26,72%, cao hơn mức trung bình toàn cầu là 22,3%”[16] và “Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới, năm 2016 Việt Nam đứng thứ 65/144 quốc gia về chỉ số khoảng cách giới (tăng 18 bậc so với năm 2015)”[17] và trước đó, năm 2014 Việt Nam cũng được đánh giá là “đứng thứ ba trong khu vực ASEAN và thứ 47 trong 187 quốc gia trên thế giới tham gia xếp hạng”[18] về thực hiện bình đẳng giới.
Trong Chiến lược quốc gia 2011 – 2020 đề ra chỉ tiêu 2: “Phấn đấu đến năm 2015 đạt 80% và đến năm 2020 đạt trên 95% Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ” và chỉ tiêu 3: “Phấn đấu đến năm 2015 đạt 70% và đến năm 2020 đạt 100% cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội có lãnh đạo chủ chốt là nữ nếu ở cơ quan, tổ chức có tỷ lệ 30% trở lên nữ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động” và đã được các Bộ, ngành, địa phương triển khai nhưng “khó có khả năng thực hiện vì một số nguyên nhân như: không thu thập được đầy đủ số liệu do các phân tổ thống kê chưa phù hợp với hệ thống thống kê số liệu, chưa có nguồn lực tương ứng và cần thêm các giải pháp để thực hiện”[19]. Như vậy, những con số đặt ra trong chỉ tiêu 2 và chỉ tiêu 3 của Chiến lược quốc gia 2011 – 2020 cũng chưa đạt được hoặc chưa xác định đạt được bao nhiêu % trên thực tế. Để thực hiện cam kết quốc gia với tư cách là thành viên Công ước CEDAW, trên thực tế Việt Nam đã không ngừng nỗ lực thực hiện các hoạt động để đảm bảo sự xoá bỏ các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ và thực tế đã trở thành một thành viên tích cực của cộng đồng quốc tế trong việc thực thi quyền bình đẳng giới.
Tuy nhiên, với những chỉ tiêu chưa đạt được cũng cho thấy các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia chưa được thực thi đầy đủ, cụ thể là chưa tiến hành tất cả các biện pháp thích hợp nhằm xoá bỏ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ trong đời sống chính trị và công cộng của đất nước, cụ thể chưa đảm bảo quyền: “… giữ các chức vụ trong các cơ quan công cộng và thực hiện tất cả chức năng công cộng ở mọi cấp chính quyền”[20] và quyền “tham gia các tổ chức và hiệp hội phi chính phủ liên quan đến đời sống công cộng và chính trị của đất nước”[21]. Chính quyền chưa “thực hiện tất cả các biện pháp thích hợp, kể cả về mặt pháp lý, nhằm sửa đổi hoặc xoá bỏ các luật và văn bản pháp luật hiện hành, các tập quán và phong tục tạo nên sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ”[22] và cũng chưa đảm bảo “quyền thăng chức”[23] của phụ nữ trong công việc, chưa “thúc đẩy việc thiết lập và sự phát triển của hệ thống các cơ sở chăm sóc trẻ em”[24] để tạo điều kiện cho nữ cán bộ, công chức, viên chức có đủ điều kiện tham chính. Như vậy, nhìn chung các giới chức và cơ quan chính quyền cũng chưa có những hành động phù hợp với công ước quốc tế CEDAW[25].
3. Đề xuất, kiến nghị
Để bảo đảm thực hiện tốt chiến lược về tăng cường số lượng phụ nữ tham chính, chúng tôi cho rằng, cần phải thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau đây:
– Thứ nhất, cần nâng cao hiệu quả nhận thức về vấn đề giới, bình đẳng giới cho các cấp bộ ngành, địa phương. Thực tế ở Việt Nam từ lịch sử cổ đại đến hiện đại, đều cho thấy nữ giới có đủ khả năng gánh vác các trọng trách như nam giới trên mọi phương diện chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, nên nếu có những vấn đề nhận thức lệch lạc về giới, về vai trò của người phụ nữ trong gia đình, cũng như ngoài xã hội từ phía cán bộ trong các cấp bộ, ngành, địa phương thì cần phải áp dụng các biện pháp xử lý thích đáng nhằm ngăn ngừa và chấm dứt các hiện tượng đó. Đặc biệt, cần thiết phải sử dụng kỷ luật đảng để giải quyết các trường hợp không đảm bảo các chỉ tiêu, yêu cầu về giới trong quá trình tổ chức xây dựng đảng và chính quyền nhà nước, trong đó cần chú trọng xử lý các trường hợp làm giảm khả năng hay cản trở sự tham chính của người phụ nữ.
Thứ hai, luật hóa tỷ lệ % phụ nữ tham chính trong tổ chức chính quyền nhà nước từ trung ương đến cơ sở; sửa đổi Luật Bình đẳng giới theo hướng xóa bỏ các thuật ngữ định tính như bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới mà cần phải đặt ra số lượng cụ thể tương ứng với % phụ nữ cả nước, địa phương để thực thi triệt để các quy định pháp luật về giới và bình đẳng giới; đối với tổ chức đảng, vấn đề giới cũng như tỷ lệ nữ lãnh đạo cũng cần thiết phải được thực thi nghiêm chỉnh như định lượng trong Nghị quyết số 11/NQ-TW; xem xét các giải pháp xử lý đối với các tổ chức, cơ quan đến năm 2020 mà không đạt tỷ lệ: “cán bộ nữ tham gia cấp ủy đảng các cấp đạt từ 25% trở lên; nữ đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp từ 35% đến 40%; các cơ quan, đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30% trở lên, nhất thiết có cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ; cơ quan cấp cao của Ðảng, Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ phải có tỷ lệ nữ phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới.
Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia có những thành tựu lớn về giáo dục, phổ biến, tuyên truyền và thực thi pháp luật về giới, bình đẳng giới trên thực tế để học tập kinh nghiệm cũng như tạo ra phong trào tích cực về việc nhìn nhận, đánh giá vị trí, vai trò của người phụ nữ trong các cấp bộ ngành, địa phương và toàn thể nhân dân. Thông qua đó cũng tiếp tục khẳng định sẽ tuân thủ nghiêm chỉnh các cam kết quốc tế liên quan đến phụ nữ mà Việt Nam là quốc gia thành viên./.
Lương Văn Tuấn, TS. Khoa Luật, Học viện Phụ nữ Việt Nam.
Bài viết được đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 19, kỳ 1 tháng 10/2018
[1] Lời nói đầu của Công ước về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ, 1979 (Công ước CEDAW).
[2] Chỉ tiêu 3 Quyết định số 19/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 21/01/2002 Phê duyệt chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010.
[3] Chỉ tiêu 4 Quyết định số 19/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 21/01/ 2002 Phê duyệt chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010.
[4] Báo cáo tóm tắt việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới của Chính phủ ngày 17/10/2017: Chỉ tiêu về tạo việc làm mới luôn đạt tỷ lệ 48% cho lao động nữ; tỷ lệ nữ làm chủ doanh nghiệp/chủ cơ sở kinh doanh năm 2016 đạt 31,6%; tỷ lệ nữ thạc sỹ hiện đạt 43%, tiến sỹ hiện đạt 21%; tỷ số giới tính khi sinh: hiện tại là 113 trẻ em trai/100 trẻ em gái; tỷ lệ phụ nữ mang thai được tiếp cận dịch vụ chăm sóc và dự phòng lây truyền HIV hiện đạt 55,7% (so với chỉ tiêu là 50%); tỷ lệ phá thai đạt 14/100 (so với chỉ tiêu là 25/100); tỷ lệ các đài phát thanh truyền hình có chuyên mục bình đẳng giới đạt 100%; tỷ lệ tập huấn cho cán bộ làm công tác bình đẳng giới đạt 100%.
[5] Báo cáo tóm tắt việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới của Chính phủ ngày 17/10/2017.
[6] http://www.xaydungdang.org.vn/Home/MagazineStory.aspx?mid=89&mzid=866&ID=2022 (cập nhật 08/6/2018)
[7] Nguồn: Ban Tổ chức TW và Văn phòng Trung ương Đảng 2006, 2011, 2015.
[8] Bà Nguyễn Thị Kim Ngân, bà Tòng Thị Phóng, bà Trương Thị Mai.
[9] Ủy viên nữ: Nguyễn Thúy Anh, H%C3%A0(Ninh_B%C3%ACnh)”>Nguyễn Thị Thu Hà, Ngô Thị Thanh Hằng, Bùi Thị Minh Hoài, Hoàng Thị Thúy Lan, Trương Thị Mai, Lê Thị Nga, Nguyễn Thị Kim Ngân, Tòng Thị Phóng, Lâm Thị Phương Thanh, Thanh(ch%C3%ADnh_kh%C3%A1ch)”>Nguyễn Thị Thanh, Đặng Thị Ngọc Thịnh, Lê Thị Thủy, Phạm Thị Thanh Trà, Võ Thị Ánh Xuân.
[10] Văn phòng Quốc hội, Kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII, XIII, XIV và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2007-2011, 2011-2016 và 2016-2021.
[11] Bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Uỷ viên Bộ Chính trị.
[12] Trần Thị Hồng (2016), Vị trí và quyền quyết định của phụ nữ và nam giới trong hệ thống chính trị ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, Số 2/2016.
[13] Trần Thị Hồng (2016), Vị trí và quyền quyết định của phụ nữ và nam giới trong hệ thống chính trị ở Việt Nam, tlđd.
[14] Trần Thị Hồng (2016), Vị trí và quyền quyết định của phụ nữ và nam giới trong hệ thống chính trị ở Việt Nam, tlđd.
[15] Trang website của Quốc hội.
[16] http://vneconomy.vn/ty-le-nu-dai-bieu-quoc-hoi-viet-nam-cao-hon-trung-binh-toan-cau-20180118111331779.htm
[17] Báo cáo tóm tắt việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới của Chính phủ ngày 17/10/2017.
[18] http://www.mofahcm.gov.vn/mofa/nr040807104143/nr040807105001/ns150311135413
[19] Báo cáo tóm tắt việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới của Chính phủ ngày 17/10/2017.
[20] Điểm b, Điều 7, Công ước CEDAW
[21] Điểm c, Điều 7, Công ước CEDAW
[22] Điểm f, Điều 2, Công ước CEDAW
[23] Điểm c, Điều 11, Công ước CEDAW
[24] Điểm c, Khoản 2, Công ước CEDAW
[25] Điểm d, Điều 2, Công ước CEDAW
Để lại một phản hồi