Sứ mệnh của luật sư tập hợp thành sứ mệnh chung của “giới luật sư” và tạo nên vị trí cao quý của nghề luật sư trong xã hội. Sứ mệnh sẽ không tồn tại nếu chỉ nằm trong suy nghĩ hay những “Tuyên ngôn nghề nghiệp” của Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Sứ mệnh luật sư phải thể hiện qua hành động, việc làm và những lợi ích mà luật sư đứng ra bảo vệ, ở chất lượng, hiệu quả dịch vụ pháp lý mà luật sư mang lại cho xã hội.
..
Những nội dung liên quan:
- Địa vị pháp lý của luật sư
- Trở thành Luật sư – dễ hay khó?
- Sự hình thành, phát triển của nghề luật sư ở Việt Nam và trên thế giới
- Những thách thức của nghề luật sư
..
Nhận diện sứ mệnh của luật sư
• Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam năm 2019: “Luật sư có sứ mệnh bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, cơ quan, bảo vệ sự độc lập của tư pháp, góp phần bảo vệ công lý, công bằng, phát triển kinh tế – xã hội và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
• Sứ mệnh của luật sư là những giá trị nghề nghiệp tốt đẹp mà luật sư có thể mang đến cho xã hội và con người. Đó là mục đích sống và làm việc chân chính, là nghĩa vụ và trách nhiệm mà người hành nghề luật sư phải hoàn thành tốt nhất để mang lại cho con người những giá trị tích cực của tinh thần thượng tôn pháp luật, công lý, công bằng.
Sứ mệnh luật sư là phạm trù bên trong văn hóa tổ chức của mỗi Tổ chức hành nghề luật sư và văn hóa sống, làm việc của luật sư. Sứ mệnh luật sư không chỉ nằm bên trong suy nghĩ, tình cảm của mỗi người làm nghề mà còn được phản ánh qua hoạt động của tổ chức hành nghề và tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư. Sứ mệnh luật sư tập hợp thành sứ mệnh chung của “giới luật sư” và tạo nên vị trí cao quý của nghề luật sư trong xã hội. Sứ mệnh sẽ không tồn tại nếu chỉ nằm trong suy nghĩ hay những “Tuyên ngôn nghề nghiệp” của LĐLSVN. Sứ mệnh luật sư phải thể hiện qua hành động, việc làm và những lợi ích mà luật sư đứng ra bảo vệ, ở chất lượng, hiệu quả dịch vụ pháp lý mà luật sư mang lại cho xã hội.
>>> Xem thêm: Khái niệm và đặc điểm của nghề luật sư
Khi đảm nhận chức danh luật sư, mỗi người làm nghề chân chính đều thấu hiểu và cảm nhận sâu sắc vì sao luật sư lại có sứ mệnh bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, cơ quan, bảo vệ sự độc lập của tư pháp, góp phần bảo vệ công lý, công bằng trong xã hội. Lý luận chung về nhà nước và pháp luật đã chỉ rõ tính chất “khách quan hóa” của pháp luật trong môi trường và điều kiện của Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Pháp luật Việt Nam hiện đại, ngoài thể hiện ý chí nhà nước còn đại diện chính thức cho ý chí và lợi ích của cộng đồng, của xã hội. Pháp luật luôn có tính chất xã hội. Ở mức độ khác nhau (tùy thuộc vào bối cảnh trong nước, quốc tế và trong mỗi thời kỳ cụ thể), pháp luật là sự tích hợp và thể hiện ý chí, lợi ích của các tầng lớp khác nhau. Tính khách quan hóa của pháp luật được nhận diện vừa là công cụ để nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để các chủ thể pháp luật, bằng các cơ chế trực tiếp hay gián tiếp giám sát hoạt động thực thi pháp luật, thực thi quyền lực nhà nước của hệ thống cơ quan công quyền đối với cả ba nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Các quyền của con người là những giá trị xã hội được con người nhận thức, thừa nhận và dần được thể chế hóa trong các văn kiện quốc tế về quyền con người và được các quốc gia thừa nhận, cam kết thực hiện. Các quyền công dân là hình thức pháp lý, biểu hiện cụ thể của quyền con người được pháp luật của quốc gia ghi nhận. Tuy vậy, không đồng nhất giữa quyền con người và quyền công dân, không đồng nhất giữa các giá trị. Quyền con người là những giá trị mà cộng đồng quốc tế nhận thức, thừa nhận, còn quyền công dân chỉ là nhận thức và thừa nhận của một quốc gia cụ thể. Vì vậy, không ít những trường hợp giữa quyền con người và quyền công dân vẫn có những khoảng cách nhất định.
Bảo đảm các quyền con người, quyền công dân là việc tạo ra các tiền đề, điều kiện về chính trị, kinh tế, xã hội, pháp lý và tổ chức để cá nhân, công dân, các tổ chức của công dân thực hiện được các quyền, tự do, lợi ích chính đáng của họ đã được pháp luật ghi nhận. Từ góc nhìn của khoa học luật học, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở nước ta, các bảo đảm pháp lý có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và mang tính quyết định, là cốt lõi, là sự thể chế hóa các bảo đảm chính trị, kinh tế, xã hội, tổ chức thành các chuẩn mực có tính bắt buộc mà nhà nước, các cơ quan nhà nước và xã hội phải thực hiện để bảo đảm các quyền con người, quyền công dân
Như vậy, một khi ý chí và lợi ích nhà nước đã được hợp pháp và thể chế hóa thành pháp luật thì pháp luật sẽ được bảo đảm thực hiện bằng quyền lực nhà nước. Mọi quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật đều được thực hiện theo những nguyên tắc, trình tự và thủ tục chặt chẽ. Nhưng trong quá trình áp dụng, sử dụng pháp luật để điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh giữa các chủ thể quan hệ pháp luật, nhất là đối với những quan hệ pháp luật mà một bên chủ thể là cơ quan công quyền và một bên là cá nhân, tổ chức, pháp nhân, đối tượng chịu sự quản lý của hệ thống này thì nguy cơ tiềm ẩn sự “lạm quyền” luôn hiện hữu. Điều này cho thấy rất cần tồn tại một “Định chế pháp lý – xã hội” (tức tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư) để bảo vệ các chủ thể pháp luật trong các mối quan hệ với hoạt động vận hành hệ thống thực thi quyền lực nhà nước, đặc biệt là thực thi quyền lực tư pháp nhà nước, để ngăn chặn, phòng ngừa, xử lý các hành vi lạm quyền, gây ảnh hưởng tiêu cực đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, cơ quan và những chủ thể khác trong xã hội. Tính khách quan hóa của pháp luật là cơ sở cho phép các chủ thể chịu sự quản lý, điều hành, tác động bởi hệ thống quyền lực công của nhà nước có quyền được sử dụng hệ thống công cụ pháp lý để bảo vệ sinh mạng chính trị, lợi ích vật chất, tinh thần, tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín… của bản thân khi có bất cứ vấn đề nào liên quan đến pháp luật. Loại hình công cụ pháp lý nhà nước có trách nhiệm trao cho công dân, tổ chức, pháp nhân của mình chính là “hệ thống dịch vụ pháp lý” trong định chế pháp lý – xã hội của các luật sư và Tổ chức hành nghề luật sư. Với mọi chủ thể pháp luật trong xã hội, sử dụng dịch vụ pháp lý luật sư là quyền hiến định để phục vụ nhu cầu và lợi ích hợp pháp của cá nhân. Đối với luật sư, cung cấp dịch vụ pháp lý cho người dân, tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp… là sứ mệnh, chức năng nghề nghiệp của luật sư mà nhà nước, xã hội tin tưởng và lựa chọn, mong muốn có được những giải pháp pháp lý hiệu lực, hiệu quả để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mọi chủ thể trong xã hội.
Sứ mệnh này được hiện thực hóa qua chức năng trợ giúp, tư vấn, hướng dẫn, bảo vệ tối ưu nhất/hiệu quả nhất quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng, phù hợp cơ chế bảo đảm quyền con người, quyền công dân theo pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam. Phương thức thực thi sứ mệnh của luật sư là tự nguyện, tự do thỏa thuận, bình đẳng và tuân thủ quy định pháp luật về luật sư. Việc thực thi sứ mệnh này của luật sư diễn ra đồng thời với hoạt động hành nghề để tồn tại và phát triển bản thân, sự nghiệp, uy tín và thương hiệu nghề nghiệp. Luật sư luôn phải “gánh vác” sứ mệnh to lớn đối với lợi ích của khách hàng, với điều kiện không đối nghịch hoặc loại bỏ lợi ích của cá nhân luật sư, nhà nước, xã hội. Đây là sự khác biệt của nghề luật sư với những nghề luật khác.
Mặt thứ hai trong sứ mệnh luật sư là vai trò, nghĩa vụ, trách nhiệm góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội. Ở phương diện này, sứ mệnh nghề nghiệp đặt ra cho luật sư năng lực cống hiến và gánh vác trách nhiệm xã hội, đấu tranh chống lại tiêu cực, vi phạm pháp luật để bảo vệ lợi ích cộng đồng, lợi ích quốc gia, dân tộc. Trong những trường hợp cụ thể có sự đối lập giữa lợi ích cá nhân khách hàng của luật sư/lợi ích cá nhân luật sư với lợi ích chung của xã hội, dân tộc, nhà nước thì tư cách pháp lý luật sư đòi hỏi luật sư có sự lựa chọn/quyết định phù hợp với sứ mệnh nghề nghiệp này.
Sứ mệnh bảo vệ sự độc lập tư pháp đối với luật sư là một giá trị cốt lõi truyền thống của nghề luật sư. Tư pháp độc lập là nội dung cơ bản của nhà nước pháp quyền, bởi khi Thẩm phán độc lập khỏi mọi áp lực thì vụ việc/vụ án sẽ được giải quyết một cách công bằng, theo hướng dẫn của pháp luật. Khi Thẩm phán độc lập và hành xử theo pháp luật, sự áp dụng pháp luật đạt được sự hợp lý và dựa trên pháp luật đang tồn tại và sức mạnh của công lý. Thẩm phán thực thi công lý như là kết quả của luật và việc áp dụng kiến thức pháp luật phải tôn trọng thực tiễn như bản chất của sự việc đã xảy ra. Thẩm phán phải mang đến công lý cho người dân mà trong đó không có quan ngại hay ý chí chủ quan, thiếu lý trí. Sứ mệnh bảo vệ sự độc lập tư pháp của luật sư góp phần thúc đẩy mặt tích cực đó của hoạt động tư pháp tại Tòa án mà không phải là tìm cách “can thiệp” bất hợp pháp vào quá trình này. Tư pháp độc lập ở những chừng mực nhất định phụ thuộc vào sự minh bạch của nền tư pháp quốc gia với sự hiện diện của các chủ thể pháp luật, trong đó, vai trò của luật sư là góp phần thúc đẩy sự minh bạch, công khai, dân chủ của quyền lực tư pháp được thực thi bởi Tòa án.
Tư pháp độc lập mang lại hiệu quả tích cực cho việc bảo vệ quyền con người cơ bản. Các quyền này và quyền công dân, tuy được ghi nhận trong Hiến pháp hay các luật, nhưng phải dựa trên quyền xét xử độc lập và khách quan của Tòa án. Sự độc lập tư pháp qua vai trò Thẩm phán và Tòa án là phương tiện không thể thiếu để hạn chế sự can thiệp của các chủ thể, kể cả Cơ quan nhà nước vào quá trình thực thi pháp luật. Thẩm phán không được có sự phân biệt đối xử, sự thiếu khách quan và phải tự điều chỉnh bản thân trong hoạt động của Tòa án cũng như không tạo cơ sở cho sự nghi ngờ vào khả năng của mình khi xét xử.
Ngay cả trong trường hợp Cơ quan nhà nước là một bên khiếu kiện thì nguyên tắc quan trọng của nhà nước pháp quyền là không ai có thể là “Thẩm phán” ngay trong vụ việc của chính mình, vì vậy, rất cần phải tồn tại một cơ quan độc lập như Tòa án, với quyền lực có giá trị ngăn ngừa sự can thiệp vào hoạt động tư pháp từ phía các Cơ quan nhà nước khác. Phù hợp với cơ chế tư pháp độc lập này, sứ mệnh góp phần bảo vệ sự độc lập tư pháp đòi hỏi hoạt động hành nghề của luật sư không thể có sự tác động trái pháp luật đến quá trình giải quyết vụ việc của cơ quan tố tụng. Sứ mệnh này nhằm ngăn ngừa việc phát sinh hiện tượng tiêu cực trong hoạt động hành nghề của luật sư.
Sự độc lập tư pháp là kết quả tất yếu của sự khái quát hóa chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc hành nghề thành giá trị cốt lõi trong văn hóa nghề nghiệp luật sư và văn hóa hành nghề của từng cá nhân luật sư. Ở vị trí trung tâm của các mối quan hệ với Cơ quan nhà nước, khách hàng, tổ chức hành nghề và trước xã hội, sự độc lập tư pháp là tư duy khoa học, trí tuệ, bản lĩnh, kinh nghiệm hành nghề. Qua quá trình hành nghề, năng lực độc lập tư pháp của luật sư đóng vai trò là một trong số yếu tố xây dựng nên thương hiệu nghề nghiệp luật sư. Giữ được sự độc lập tư pháp hoặc ngược lại quyết định một phần quan trọng sự thành bại của từng vụ việc cũng như cả sự nghiệp của người hành nghề. Đây là một trong số tiêu chí thuộc về năng lực nghề nghiệp luật sư. Để thực thi sứ mệnh này, luật sư cần xây dựng và thường xuyên trau dồi phẩm chất, bản lĩnh nghề nghiệp; sự thượng tôn pháp luật; sự chính trực; tôn trọng sự thật khách quan bên cạnh kiến thức chuyên môn và sự am hiểu xã hội sâu rộng. Giữ và bảo vệ sự độc lập tư pháp đối với luật sư là “vũ khí pháp lý” sắc bén để tự bảo vệ bản thân, phòng ngừa, loại bỏ, xử lý hiệu quả các rủi ro, bất trắc có thể xảy ra trong hoạt động hành nghề.
Chức năng xã hội của luật sư
Chức năng xã hội của luật sư là sự thể chế hóa sứ mệnh nghề nghiệp luật sư trong Luật Luật sư (Điều 3 Luật Luật sư năm 2006).
Chức năng xã hội của luật sư là một trong số phương diện hoạt động nghề nghiệp mà thông qua đó, luật sư đóng góp giá trị nghề nghiệp cho việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, nhà nước, góp phần phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Cơ chế thực hiện chức năng xã hội của luật sư đề cao và khuyến khích sự tự nguyện, tinh thần cống hiến của luật sư đối với các vấn đề phát sinh trong đời sống kinh tế – xã hội của đất nước, tăng cường vị thế và thúc đẩy thực thi trách nhiệm cộng đồng của luật sư với xã hội.
Trong quan hệ pháp luật về cung cấp dịch vụ pháp lý, việc pháp luật quy định chức năng xã hội là một nghĩa vụ pháp lý bắt buộc của luật sư nhằm bảo đảm cho sự nỗ lực, tận tâm, thiện chí của luật sư đối với quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng. Chức năng xã hội nhắc nhở, củng cố và duy trì trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp luật sư trong hỗ trợ người dân thực thi quyền tiếp cận công lý. Ngoài ra, đặt vào từng vụ việc/tình huống cụ thể, chức năng xã hội bảo đảm để luật sư tích cực tham gia vào những công việc theo yêu cầu hợp pháp của Cơ quan nhà nước.
Chức năng xã hội trở nên có ý nghĩa quan trọng khi đặt trong mối quan hệ với tư cách pháp lý độc lập của luật sư, nhằm hạn chế, ngăn ngừa việc luật sư đưa ra những sự từ chối không thích hợp đối với những chủ thể pháp luật khi gặp khó khăn, vướng mắc về pháp luật (như người yếu thế về vị thế xã hội, người thuộc diện được trợ giúp pháp lý theo quy định pháp luật hiện hành…) cần đến vai trò của luật sư.
Khi địa vị pháp lý của luật sư đã được thừa nhận rộng rãi về mặt pháp lý và có được chỗ đứng trong xã hội, cần nhận thức thấu đáo hơn về chức năng xã hội của luật sư như được quy định tại Điều 3 Luật Luật sư năm 2006: “Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Nói tới chức năng xã hội của luật sư là đề cập đến thiên chức và sứ mệnh của luật sư trong xã hội, tới cách thức mà luật sư hành nghề hướng đến những giá trị cơ bản làm nền tảng cho sự phát triển của xã hội. Chức năng này không phải tự nhiên mà có, bởi về bản chất, hoạt động luật sư phản ánh trước hết bởi nhu cầu của cá nhân, tổ chức mong muốn được trợ giúp về pháp lý nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước tương quan không ngang bằng giữa quyền lực nhà nước và cá nhân. Mặt khác, nhìn từ góc độ lịch sử, có thể nhận thấy việc hình thành nghề luật sư có căn nguyên sâu xa từ cuộc đấu tranh chống những áp bức và bất công trong xã hội. Chính từ hành động nhằm chống lại những bất công trong lòng xã hội có giai cấp, hình ảnh luật sư xuất hiện đẹp đẽ như biểu tượng về lòng nghĩa hiệp, phản ánh ước vọng khát khao của những tầng lớp nhân dân về công lý, lẽ công bằng và dân chủ. Như vậy, không thể có hoạt động luật sư tách rời với các điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, cũng như không thể nói đến quá trình thực hiện dân chủ và công bằng xã hội mà không có sự tham gia của đội ngũ luật sư. Có thể nói, các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh đã trở thành “dung môi” cho hoạt động nghề nghiệp của luật sư. Mất đi môi trường và đối tượng phục vụ là các chủ thể xã hội là mất đi nền tảng tạo thành mục tiêu hoạt động của luật sư.
Chức năng xã hội của luật sư được thể hiện thông qua khả năng đáp ứng nhu cầu pháp lý của người dân một cách minh bạch và tạo ra cho người dân nhận biết chân thực và công bằng các nhu cầu chính đáng ấy. Quan niệm này xuất phát từ việc xác định vị trí luật sư trong xã hội là người hướng dẫn pháp luật. Người dân trông chờ vào sự trợ giúp về mặt pháp lý của luật sư vì họ tin tưởng không chỉ vào kiến thức pháp lý, kỹ năng hành nghề, mà cả về tính liêm chính, chuẩn mực trong hành vi của cá nhân và tổ chức luật sư như là một tầng lớp trí thức ưu tú, có văn hóa và hoài bão, có ảnh hưởng nhất định đến quá trình phát triển của xã hội.
Vì thế, hoạt động của luật sư chứa đựng một hàm lượng các giá trị xã hội tiêu biểu, được nhìn nhận trong nhiều chiều chuyển động của các mối quan hệ xã hội, gắn trách nhiệm công dân với diễn biến của thời đại, mưu cầu chính nghĩa và góp phần nhiều hơn nữa cho sự phát triển của đất nước. Phẩm chất của luật sư trong điều kiện hiện nay được kỳ vọng không chỉ là người tuân thủ pháp luật, có kỹ năng và kỷ luật, trình độ tinh thông nghề nghiệp, tận tâm với khách hàng, mà còn phải là người có tấm lòng yêu thương đối với xã hội, có lối sống lành mạnh, tin vào chính nghĩa, tin vào công bằng xã hội. Hình ảnh luật sư trong chế độ xã hội chủ nghĩa không phải là người làm “chính trị” đơn thuần hoặc chỉ tính toán thu nhập cá nhân, mưu cầu lợi ích cho riêng mình. Hình mẫu luật sư phù hợp với điều kiện phát triển hiện nay của Việt Nam phải là người có văn hóa và nhận thức chính trị ngang tầm với sự phát triển của xã hội, dựa trên một nền tảng lý luận và tinh thông kỹ năng nghề nghiệp pháp lý sâu sắc, có kinh nghiệm thực tiễn phong phú và phương pháp làm việc linh hoạt; vừa giữ được giới hạn các chuẩn mực của pháp luật và trách nhiệm nghề nghiệp, vừa biết vận dụng sáng tạo tinh thần thượng tôn pháp luật vào việc xử lý các sự kiện trong đời sống thực tiễn.
Xuất phát từ nền tảng và nhu cầu xã hội mà hình thành nên nghề luật sư và với chức năng xã hội, luật sư được nhìn nhận vai trò như một trợ tá trong hành trình tìm kiếm công lý. Ở đây, cần quan niệm về “công lý” trong điều kiện lịch sử, cụ thể của đất nước ta. Quan niệm về công lý được coi là giá trị của một nền tư pháp dân chủ, khi mà các quyền con người được tôn vinh và là đích đến của toàn bộ hệ thống tư pháp, là việc bảo đảm pháp luật được coi là đại lượng công bằng trong đánh giá, xử sự, hành động của các chủ thể trong xã hội, tạo ra một cơ chế minh bạch nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và tổ chức. Hoạt động của luật sư với sứ mệnh bảo vệ công lý, công bằng xã hội được coi là một đại lượng để đánh giá uy tín và chất lượng của hoạt động tư pháp. Với Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị, cùng với việc ban hành Luật Luật sư, có thể nói nghề luật sư ở nước ta đang có được những cơ hội phát triển đầy thuận lợi. Do đó, chức năng xã hội của luật sư góp phần bảo vệ công lý, xét trong điều kiện cụ thể của tiến trình cải cách tư pháp hiện nay là “một đòi hỏi tự thân của nền công lý và dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta”.[1]
Khi nói tới chức năng xã hội của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, cần đặt trong sự phát triển dân chủ của xã hội nói chung và hoạt động tư pháp nói riêng. Nghiên cứu về bản chất của hoạt động luật sư trong tiến trình phát triển dân chủ của xã hội hiện còn nhiều quan niệm khác nhau, nhưng muốn thực hiện được chức năng xã hội nêu trên, trước hết phải bảo đảm các điều kiện và cơ sở kinh tế cho việc thực hiện các quyền tự do và dân chủ của công dân. Hiệu quả hoạt động luật sư sẽ góp phần vun đắp nhận thức và sự tin cậy của người dân đối với các thiết chế dân chủ, trong đó định chế luật sư được nhìn nhận như một trong những yếu tố bảo đảm cho việc phát triển dân chủ xã hội. Hoạt động của luật sư mang đến cho xã hội nói chung và tố tụng tư pháp nói riêng những giá trị của dân chủ, thông qua sự bình đẳng trong tranh tụng, đề xuất yêu cầu, đại diện hoặc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân, tổ chức trước những hành vi xâm phạm, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của nền kinh tế thị trường phát triển ổn định và vững chắc. Vì thế, mức độ phát triển của nghề luật sư ở một quốc gia có thể được xem là một trong những điều kiện đánh giá sự phát triển của nền dân chủ và của việc xây dựng nhà nước pháp quyền.
Điều 3 Luật Luật sư năm 2006 đã bỏ cụm từ “pháp chế xã hội chủ nghĩa” trong chức năng xã hội của luật sư như được nêu tại khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh luật sư năm 2001. Sự thay đổi này không làm giảm đi vị thế của luật sư trong xã hội nước ta hiện nay gắn với bản chất giai cấp của Nhà nước, là bộ phận cấu thành nên các thiết chế dân chủ trong hệ thống tư pháp. Hiện nay, nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức là “nội hàm” trong chức năng xã hội của luật sư. Mặc dù không nhấn mạnh một chiều đến yếu tố “phục vụ Tổ quốc”, “bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa” như một chức năng xã hội, nhưng cũng không thể đơn giản chỉ coi việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức là nhiệm vụ, thiên chức duy nhất của luật sư. Luật sư hành nghề không chỉ quan tâm đến thù lao của khách hàng và những lợi ích vật chất, tinh thần, mà còn phải quan tâm đến yếu tố phi vật chất, phi dịch vụ trong hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo, bào chữa theo chỉ định của Tòa án hoặc tham gia với tư cách là luật sư của tổ chức, cơ quan, chính quyền, từng bước phủ kín nhu cầu cung cấp dịch vụ pháp lý cho đông đảo các tầng lớp nhân dân. Ý nghĩa, tính chất trong việc phục vụ cho lợi ích cộng đồng, giúp lành mạnh hóa các quan hệ xã hội, hòa giải các xung đột về lợi ích giữa các cá nhân và chủ thể xã hội khác, nâng cao vị thế của người luật sư như một cầu nối chuyển tải pháp luật là những vấn đề thuộc về quan niệm, nhận thức liên quan chức năng xã hội của luật sư.
Quan niệm về chức năng xã hội của luật sư góp phần phát triển kinh tế chưa phải đã được nhận thức một cách toàn diện, đầy đủ. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước chủ trương tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển. Với đặc trưng của nền kinh tế được quản lý bằng pháp luật, kinh tế thị trường vừa đòi hỏi sự cạnh tranh, hiệu suất và lợi ích kinh tế của các chủ thể tham gia được đặt lên hàng đầu, vừa phải thể hiện tính hợp pháp, hợp lý và công bằng xã hội trong các hành vi kinh tế. Muốn nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trò quản lý của Nhà nước thông qua công cụ hữu hiệu là pháp luật cần được đề cao và coi trọng, nhằm đưa các quan hệ kinh tế vào trật tự hóa và quy phạm hóa, phát huy tính tích cực và tinh thần sáng tạo của các chủ thể tham gia nền kinh tế thị trường. Nhìn trên một khía cạnh khác, có thể gọi nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là nền kinh tế vận hành dựa trên cơ sở pháp luật. Trong quá trình vận hành đó, vai trò và địa vị pháp lý của luật sư sẽ ngày càng được coi trọng, là nhân tố bảo đảm sự lành mạnh hóa sự phát triển của nền kinh tế đất nước, giảm thiểu những thiệt hại từ những rủi ro về mặt pháp lý hoặc phòng ngừa tranh chấp kinh tế.
Sự phát triển kinh tế của nước ta trong điều kiện hiện nay, nhất là quá trình hội nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã tạo ra cho nghề luật sư một không gian phát triển đặc biệt và ngày càng lớn hơn. Khi tiến hành hội nhập quốc tế, các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế ở nước ta gặp rất nhiều trở ngại do thiếu hiểu biết về các luật lệ và tập quán kinh doanh quốc tế, bị động và thua thiệt trong giải quyết các bất đồng, tranh chấp kinh tế tại các cơ quan tài phán quốc tế. Với sự trợ giúp của luật sư, các doanh nghiệp có điều kiện hoạt động sản xuất, kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật, hạn chế những rủi ro, thua thiệt trong tranh chấp kinh tế thương mại, chủ động trong việc xác lập tính hiệu quả và kế hoạch, giải quyết những vướng mắc, bất đồng và làm cho cơ chế vận hành trong nội bộ doanh nghiệp thông suốt. Xét cho cùng, cần quan niệm dịch vụ pháp lý như một ngành sản xuất vật chất, hàm lượng tư duy pháp lý cấu thành trong giá trị của sản phẩm lưu thông trên thị trường, trong thương hiệu của doanh nghiệp. Bản thân các luật sư và các Tổ chức hành nghề luật sư trong quá trình hoạt động cũng có những đóng góp đáng kể, với giá trị ngày càng tăng trong tổng thu nhập quốc dân thông qua thực hiện các nghĩa vụ về thuế.
Như vậy, chức năng xã hội của luật sư tuy chỉ giới hạn chừng mực ngắn gọn trong một điều luật của Luật Luật sư, nhưng ẩn chứa trong đó những quan niệm và ý nghĩa sâu xa về thiên chức nghề nghiệp, sự cống hiến và đóng góp to lớn của đội ngũ luật sư trong tiến trình phát triển của nền dân chủ, từng bước hướng đến tiếp cận với công lý và công bằng xã hội. Bản chất hoạt động luật sư còn chứa đựng trong đó khía cạnh thúc đẩy sự phát triển kinh tế và hội nhập, hướng đến quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó nền tảng là hoàn thiện các chế định dân chủ với pháp luật đóng vai trò tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nếu quan niệm thực tiễn xét xử hình sự như một tích hợp của các quá trình vận hành tố tụng, bao gồm toàn bộ các khâu điều tra, truy tố và xét xử, thể hiện ở khâu cuối cùng là thực thi phán quyết có hiệu lực pháp luật của Tòa án, thì luật sư hiện diện và có vai trò quan trọng trong toàn bộ quá trình vận hành nói trên.
[1] Trần Đức Lương, Đẩy mạnh cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 1 (tháng 1/2002), tr. 4.
Để lại một phản hồi Hủy