Site icon Hocluat.VN

Những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự Việt Nam

Tương tự như các ngành luật độc lập khác Luật Tố tụng dân sự cũng có các nguyên tắc nhằm ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật và những biểu hiện tiêu cực trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án dân sự.

 

Những nội dung liên quan:

 

Những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự Việt Nam

Mục lục:

  1. Khái niệm và ý nghĩa của các nguyên tắc cơ bản
  2. Nội dung các nguyên tắc của Luật tố tụng dân sự Việt Nam

1. Khái niệm và ý nghĩa của các nguyên tắc cơ bản

Nguyên tắc” là điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm.

Nguyên tắc của một ngành luật là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, định hướng cho hoạt động xây dựng và thực hiện các quy định của nó.

Tuy vậy, trên thực tế các tư tưởng pháp lý chỉ có giá trị bắt buộc nếu được thể hiện dưới hình thức quy phạm pháp luật. Do vậy, các nguyên tắc của một ngành luật thường được quy định trong các văn bản pháp luật về ngành luật đó làm cơ sở cho việc thực hiện và được quy định dưới dạng quy phạm chung.

Tất cả các quy phạm pháp luật tố tụng dân sự đều phải thể hiện tinh thần và nội dung các nguyên tắc đã được xác định, tất cả các hành vi, hoạt động của các chủ thể đều phải thực hiện trên cơ sở quán triệt các nguyên tắc đã đề ra, bất kỳ hành vi nào vi phạm một trong số các nguyên tắc đều bị coi là trái pháp luật. Việc quán triệt các nguyên tắc có tác dụng ngăn chặn mọi hành vi vi phạm pháp luật và những biểu hiện tiêu cực trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án dân sự.

2. Nội dung các nguyên tắc của Luật tố tụng dân sự Việt Nam

2.1. Nhóm nguyên tắc chung của Luật tố tụng dân sự Việt Nam

2.1.1. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng dân sự (Đ3)

– Cơ sở:

+ Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, có tác dụng bảo đảm cho hoạt động của bộ máy Nhà nước được nhịp nhàng, đồng bộ, phát huy hiệu lực của Nhà nước và bảo đảm công bằng xã hội;

+ Hoạt động tố tụng dân sự là một dạng của hoạt động pháp luật nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ lẽ phải, vì vậy, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng dân sự là một nhu cầu khách quan của hoạt động giải quyết các vụ việc dân sự.

– Nội dung:

Mọi hoạt động tố tụng dân sự của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan phải tuân theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

2.1.2. Bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án (Đ19)

– Cơ sở:

+ Việc xét xử chỉ có ý nghĩa khi bản án, quyết định của Tòa án được thi hành đúng trên thực tế;

+ Thực hiện đúng nguyên tắc này còn bảo đảm cho nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa được thực hiện.

– Nội dung:

Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và phải được mọi công dân, cơ quan, tổ chức tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định của Tòa án phải nghiêm chỉnh chấp hành.

Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Tòa án nhân dân và các cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án phải nghiêm chỉnh thi hành và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ đó.

2.1.3. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự (Đ21)

– Cơ sở:

Hoạt động tố tụng dân sự khá đa dạng, phức tạp, lại dễ xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác.

– Nội dung:

Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.

Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa đối với những vụ án do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, các vụ việc dân sự mà Viện kiểm sát kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án.

2.1.4. Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự (Đ11)

– Cơ sở:

Thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm nhân dân nhằm tạo điều kiện cho mọi người tham gia vào công việc của Nhà nước, bảo đảm thực hiện dân chủ trong tố tụng dân sự, tạo điều kiện cho Tòa án giải quyết đúng đắn vụ án dân sự; phát huy tác dụng giáo dục của phiên tòa, nâng cao ý thức pháp luật cho mọi người.

– Nội dung:

Việc xét xử các vụ án dân sự có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán.

Hội thẩm Nhân dân được tham gia quá trình tố tụng, tuy nhiên hoạt động còn rất hình thức. Mặt khác, do chƣa có cơ chế quản lý, điều hành nên sự phân công nhiệm vụ cho HTND chƣa đƣợc chú trọng. Chính những bất cập này đã làm giảm chất lượng xét xử và gây bị động, lúng túng cho các cấp Tòa án.

Ở địa phương, theo giới thiệu của MTTQVN, mỗi nhiệm kỳ, HĐND huyện đều tiến hành bầu 18-20 HTND để tham gia xét xử với Tòa án nhân theo quy định của pháp luật. Số HTND được bầu hầu hết là những cán bộ đương chức đang công tác tại các cơ quan nhà nước, ở các tổ chức chính trị – xã hội như: Liên đoàn Lao động, Hội LHPN, Hội Chữ thập đỏ…; một số là giáo viên, cán bộ Đoàn để bảo đảm cơ cấu khi trong hội đồng xét xử có bị cáo là người chưa thành niên.

Điều đáng quan tâm là, trong nhiều nhiệm kỳ của HĐND, đa số HTND là cán bộ đương chức ít tham gia xét xử. Cá biệt, có những HTND trong suốt một nhiệm kỳ 5 năm không tham gia
(hoặc không được tham gia) xét xử vụ án nào.

Lý do, HTND đương chức bận công tác, hoặc HTND không có kiến thức về chuyên môn nên tự ti, mặc cảm từ chối lời mời của Tòa án. Không dưới 2/3 số bản án đã được xét xử trong một nhiệm kỳ do các HTND là cán bộ hưu trí tham gia.
Trung bình mỗi tháng, lịch xét xử được bố trí từ giữa tháng đến cuối tháng, từ hình sự đến dân sự, hành chính, kinh tế, lao động. Nếu vì một lý do nào đó các vị HTND này không thể tham gia xét xử được thì các thẩm phán rơi vào thế bị động. Để xử lý tình huống này, Thư ký Tòa án thường gọi điện “tìm”và khó khăn lắm mới có thể mời được một HTND còn đương chức tham gia. Nhiều trường hợp, trước lúc mở phiên tòa, tất cả những người tham gia tố tụng đều đã có mặt thì HTND vì những lý do đột xuất không tham dự được, Tòa án lại phải gọi điện nhờ HTND khác
“chữa cháy”.

Tất nhiên, không có thời gian để nghiên cứu hồ sơ nên trước khi khai mạc phiên tòa, các vị HTND được Thẩm phán (chủ tọa phiên tòa) nêu“đại khái” một số tình tiết, nội dung giúp HTND nắm sơ bộ để có thể yên tâm ngồi vào vị trí xét xử cho đủ thành phần theo luật định. Những trường hợp này, phiên tòa khai mạc rất muộn và thường kéo dài. Nếu không có vị HTND nào tham gia thì đương nhiên phiên tòa bị hoãn lại, gây phiền toái cho người dân, ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm của pháp đình. Quá trình tố tụng, do hạn chế về kiến thức pháp luật và không nắm rõ tình tiết vụ án nên có những HTND thẩm vấn nhiều câu hỏi không có trọng tâm, gây cười cho những người tham dự phiên Tòa.

2.1.5. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Đ12)

– Cơ sở:

Hoạt động xét xử là dạng hoạt động có tính chất đặc biệt, hoàn toàn dựa trên hoạt động tư duy của các thành viên hội đồng xét xử, để đảm bảo việc xét xử giải quyết vụ án dân sự được khách quan, công bằng, đúng pháp luật thì khi xét xử thẩm phán, hội thẩm nhân dân phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, tự mình quyết định không phụ thuộc vào ai, không bị chi phối bởi ý kiến cả nhau và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.

– Nội dung:

Khi xét xử vụ án dân sự, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Nghiêm cấm mọi hành vi cản trở Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân thực hiện nhiệm vụ.

2.1.6. Tòa án xét xử tập thể (Đ14)

– Cơ sở:

Việc giải quyết vụ án dân sự rất phức tạp đòi hỏi cán bộ đảm nhiệm công việc này phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ nhất định, thận trọng, khách quan và công bằng trong việc giải quyết.

Tuy nhiên, trên thực tế để đáp ứng được những vấn đề đó không dễ dàng. Vì vậy, việc xét xử vụ án bằng một tập thể sẽ góp phần hạn chế những sai sót trong công tác xét xử.

– Nội dung:

Tòa án xét xử tập thể vụ án dân sự và quyết định theo đa số.

2.1.7. Xét xử công khai (Đ15)

– Cơ sở:

Xét xử công khai tạo điều kiện cho mọi người giám sát được hoạt động xét xử, bảo đảm việc xét xử được minh bạch, đúng pháp luật, tăng cường hiệu quả giáo dục pháp luật.

– Nội dung:

Việc xét xử vụ án dân sự của Tòa án được tiến hành công khai, mọi người đều có quyền tham dự, trừ trường hợp do Bộ luật tố tụng dân sự quy định.

Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì Tòa án xét xử kín, nhưng phải tuyên án công khai.

2.1.8. Thực hiện chế độ hai cấp xét xử (Đ17)

– Cơ sở:

Việc thực hiện xét xử theo hai cấp có ý nghĩa quan trọng, vừa bảo đảm cho Tòa án xét xử đúng pháp luật, vừa bảo đảm cho đương sự bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án.

– Nội dung:

Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn do Bộ luật tố tụng dân sự quy định thì có hiệu lực pháp luật; đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.

Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

2.1.9. Giám đốc việc xét xử (Đ18)

– Cơ sở:
Hoạt động xét xử của Tòa án cũng như các hoạt động khác muốn thực hiện được tốt thì đều phải có sự quản lý, giám sát, đôn đốc của người có thẩm quyền. Giám đốc việc xét xử không những bảo đảm cho hoạt động xét xử được đúng đắn mà còn bảo đảm cho việc áp dụng pháp luật được thống nhất.

– Nội dung:

Tòa án cấp trên giám đốc (giám sát, đôn đốc) việc xét xử của Tòa án cấp dưới, Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của Tòa án các cấp để bảo đảm việc áp dụng pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất.

2.1.10. Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng dân sự (Đ20)

– Cơ sở:

Ở nước ta có tới trên 50 dân tộc, trong nhiều vụ việc dân sự có thể đương sự là người thuộc các dân tộc khác nhau. Để thực hiện được việc xét xử, tiếng nói, chữ viết dùng trong tố tụng dân sự phải thống nhất. Đây là vấn đề không những có ý nghĩa về pháp lý mà còn ý nghĩa cả về chính trị.

– Nội dung:

Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng dân sự là tiếng Việt.

Người tham gia tố tụng dân sự có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, trong trường hợp này cần phải có người phiên dịch.

2.1.11. Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự (Đ24)

– Cơ sở:

Trên thực tế, hoạt động của các chủ thể trong quá trình tố tụng vì những lý do khác nhau có thể không đúng, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác.

Nguyên tắc này là cơ sở pháp lý để các chủ thể bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác và góp phần giải quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng và đúng đắn.

– Nội dung:

Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, cá nhân có quyền tố cáo những việc làm trái pháp luật của người tiến hành tố tụng dân sự hoặc của bất cứ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào trong hoạt động tố tụng dân sự.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản về kết quả giải quyết cho người đã khiếu nại, tố cáo biết.

2.1.12. Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng dân sự (Đ16)

– Cơ sở:

Những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng giúp Tòa án làm rõ các vấn đề của vụ việc dân sự, nếu họ không vô tư trong việc tiến hành tố tụng thì việc giải quyết sẽ bị thiên lệch.

– Nội dung:

Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, người phiên dịch, người giám định không được tiến hành hoặc tham gia tố tụng, nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

2.1.13. Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự (Đ9)

– Cơ sở:

Tố tụng dân sự là một quá trình phức tạp. Đương sự chỉ có thể bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi thực hiện tốt các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của họ. Tuy nhiên, trên thực tế không phải ai cũng có thể thực hiện điều này.

– Nội dung:

Ðương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ của họ.

2.1.14. Trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự (Đ13)

– Cơ sở:

Kết quả giải quyết vụ việc dân sự phụ thuộc rất lớn vào việc cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự có đề cao được trách nhiệm của mình trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn hay không.

– Nội dung:

+ Cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự phải tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân.

+ Cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Trường hợp người tiến hành tố tụng có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

+ Cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự phải giữ bí mật nhà nước, bí mật công tác theo quy định của pháp luật; giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của các đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ.

+ Người tiến hành tố tụng dân sự có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho cá nhân, cơ quan, tổ chức thì Tòa án phải bồi thường cho người bị thiệt hại và người tiến hành tố tụng có trách nhiệm bồi hòan cho Tòa án theo quy định của pháp luật.

2.1.15. Trách nhiệm chuyển giao tài liệu, giấy tờ của Tòa án (Đ22)

– Cơ sở:

Việc các chủ thể tố tụng nhận được các tài liệu, giấy tờ về vụ việc dân sự có ý nghĩa rất lớn đối với việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ.

– Nội dung:

+ Tòa án có trách nhiệm chuyển giao trực tiếp hoặc qua bưu điện bản án, quyết định, giấy triệu tập, giấy mời và các giấy tờ khác của Tòa án liên quan đến người tham gia tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật này.

+ Trong trường hợp Tòa án chuyển giao trực tiếp không được hoặc qua bưu điện không có kết quả thì Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) nơi người tham gia tố tụng dân sự cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người tham gia tố tụng dân sự làm việc có trách nhiệm chuyển giao bản án, quyết định, giấy triệu tập, giấy mời và các giấy tờ khác của Tòa án liên quan đến người tham gia tố tụng dân sự khi có yêu cầu của Tòa án và phải thông báo kết quả việc chuyển giao đó cho Tòa án biết.

2.1.16. Trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (Đ7)

– Cơ sở:

Chứng cứ của vụ việc dân sự có thể do các đương sự lưu giữ, nhưng cũng có thể do cá nhân, cơ quan, tổ chức khác lưu giữ. Để đương sự có thể thực hiện được nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của họ và Tòa án có chứng cứ để giải quyết vụ việc dân sự thì các cá nhân, cơ quan, tổ chức lưu giữ phải cung cấp cho đương sự hoặc Tòa án.

– Nội dung:

Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ cho đương sự, Tòa án chứng cứ trong vụ án mà cá nhân, cơ quan, tổ chức đó đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Tòa án; trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Tòa án biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được chứng cứ.

2.1.17. Việc tham gia tố tụng dân sự của cá nhân, cơ quan, tổ chức (Đ23)

– Cơ sở:

Trong nhiều trường hợp, việc tham gia tố tụng của các cá nhân, cơ quan, tổ chức góp phần giải quyết nhanh chóng và đúng đắn vụ việc.

– Nội dung:

Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật này, góp phần vào việc giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án kịp thời, đúng pháp luật.

2.2. Nhóm nguyên tắc đặc thù của Luật tố tụng dân sự Việt Nam

2.2.1. Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp (Đ4)

– Cơ sở:

Nhà nước đại diện cho lợi ích của các giai cấp trong xã hội nên các quyền, lợi ích chính đáng của các chủ thể được Nhà nước bảo hộ.

– Nội dung:

Các chủ thể do Bộ luật TTDS qui định, có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác.

Ví dụ:

– Vụ ca sỹ Phương Thanh kiện blogger Cô gái Đồ Long yêu cầu bồi thường vì bị xúc phạm danh dự, nhân phẩm.

– Vụ MC Đan Lê bị tung clip sex lên mạng.

– Vụ xét nghiệm nhầm HIV

Ngày 19/8/2005, chị Nguyễn Thị Thanh vào khoa Sản Bệnh viện đa khoa Hà Tĩnh sinh con. Vì thai nhi lớn nên bệnh viện quyết định cho chị sinh mổ. Theo nguyên tắc, trước khi sinh mổ chị phải làm xét nghiệm máu. Thật bất ngờ, sau ba lần xét nghiệm, các bác sĩ ở đây kết luận chị bị dương tính với virus HIV.

Sau đó, ca sinh mổ của chị Thanh thành công nhưng thông tin chị bị nhiễm HIV không hiểu sao lại nhanh chóng lọt ra ngoài, truyền đi khắp nơi (theo quy định, thông tin về người bị nhiễm HIV phải được bệnh viện giữ kín). Chưa hết choáng váng vì hung tin, chị Thanh đã phải đối mặt với lời xầm xì của dư luận. Cả khu phố soi mói, xa lánh khiến chị ăn không ngon, ngủ không yên. Hai bên gia đình thì hoang mang đủ đường, vợ chồng chị thì nghi kỵ lẫn nhau, mâu thuẫn trầm trọng. Không những thế, chị còn không dám cho con bú sữa mẹ vì sợ cháu bị lây nhiễm.

Một thời gian sau, bệnh viện mới lập danh sách chị Thanh bị nhiễm HIV và gửi sang Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh xét nghiệm tiếp. Khi chị đến đây đòi kết quả xét nghiệm của mình thì hỡi ôi, chị hoàn toàn khỏe mạnh! Quá vui mừng nhưng để chắc ăn, gia đình đưa chị ra Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh Nghệ An xét nghiệm lại. Lần này, các bác sĩ đều khẳng định chị hoàn toàn không bị nhiễm HIV.

Bức xúc, chị Thanh khởi kiện Bệnh viện đa khoa Hà Tĩnh ra TAND TP này đòi bồi thường thiệt hại hơn 53 triệu đồng vì đã xét nghiệm sai và tiết lộ thông tin bệnh nhân bị nhiễm HIV.

Ngày 31/5/2007, TAND TP Hà Tĩnh đã xử sơ thẩm, nhận định Bệnh viện đa khoa Hà Tĩnh có lỗi trong việc tuyên truyền thông tin sai lệch ra ngoài và thiếu trách nhiệm trong việc khắc phục hậu quả xét nghiệm sai. Bệnh viện chậm gửi mẫu máu sang Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh theo quy định, thiếu sự đốc thúc Trung tâm trả lời nhanh kết quả xét nghiệm của sản phụ… Các sơ sót trên đã dẫn tới việc chị Thanh bị khủng hoảng tinh thần, làm gia đình chị xảy ra mâu thuẫn, con chị bị mất sức vì không được bú sữa mẹ.

Từ đó, TAND TP Hà Tĩnh đã tuyên buộc bệnh viện phải bồi thường 14,5 triệu đồng tiền tổn thất tinh thần và tiền mua sữa ngoài nuôi con cho chị Thanh. Ngoài ra, tòa cũng yêu cầu lãnh đạo bệnh viện phải trực tiếp đến nhà chị Thanh xin lỗi gia đình với sự chứng kiến của cán bộ khu phố và chính quyền địa phương.

– Vụ Vedan xả nước thải gây ô nhiễm môi trường

– Vụ xăng có chứa chất aceton, nước tương có chất 3-MCPD…

2.2.2. Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự (Đ5)

– Cơ sở:

Xuất phát từ các nguyên tắc trong giao lưu dân sự.

– Nội dung:

Ðương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.

Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.

2.2.3. Cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự (Đ6)

– Cơ sở:

Trong tố tụng dân sự, các đương sự là người trong cuộc, biết được sự việc, đưa ra yêu cầu nên họ phải cung cấp cho Tòa án các chứng cứ và chứng minh làm rõ vụ việc.

– Nội dung:

Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh như đương sự.

Tòa án chỉ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp do luật quy định. Tòa án chỉ hỗ trợ đương sự thu thập chứng cứ và thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong trường hợp họ không thể tự mình thực hiện được và trong trường hợp pháp luật có quy định.

Ví dụ: Vụ kiện các cơ sở sản xuất nƣớc tƣơng có chứa chất 3-MCPD đòi bồi thƣờng 30 tỷ đồng

Anh Hà Hữu Tường, một cử nhân luật ở Q.Thủ Đức- TPHCM đã thay mặt hàng triệu người tiêu dùng, vừa chính thức khởi kiện các cơ sở nước tương “đen” và yêu cầu bồi thường 30 tỷ đồng!

Theo đơn khởi kiện, anh Tường yêu cầu các nhà sản xuất phải bồi thường thiệt hại 30 tỷ đồng đối với sức khỏe và tính mạng hàng triệu NTD đã sử dụng sản phẩm nước tương chứa 3- MCPD vượt tiêu chuẩn trong nhiều năm qua.

Tuy nhiên, xét về góc độ pháp luật tố tụng, đơn khởi kiện này khó có thể đƣợc Tòa án chấp nhận.

Thứ nhất, anh Tường chỉ là một cá nhân, theo luật thì cá nhân có thể kiện để yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình, nếu thay mặt cho những người khác phải được sự ủy quyền hợp pháp của những người đó; còn việc khởi kiện bảo vệ quyền lợi người khác hay lợi ích công cộng chỉ do các cơ quan, tổ chức có chức năng trong lĩnh vực phụ trách của mình mới có quyền khởi kiện.

Thứ hai, đơn khởi kiện phải ghi rõ bị đơn là ai, chứ không thể ghi chung chung các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất nước tương và ngành y tế được.

Thứ ba, yêu cầu bồi thường 30 tỷ đồng cho “sức khỏe và tính mạng của hàng triệu người tiêu dùng”, mà không rõ là bồi thường cho cụ thể ai. Thứ tư, kèm theo đơn phải có chứng cứ cụ thể chứng minh cho yêu cầu bồi thường 30 tỷ đồng này.

2.2.4. Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự (Đ8)

– Cơ sở:

Để bảo đảm giải quyết vụ việc dân sự được khách quan, đúng luật thì các đương sự phải được bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự. Nguyên tắc này là tiền đề chủ yếu để thực hiện tranh tụng tại phiên tòa.

– Nội dung:

Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, trước Tòa án không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp. Mọi cơ quan, tổ chức đều bình đẳng không phụ thuộc vào hình thức tổ chức, hình thức sở hữu và những vấn đề khác.

Các đương sự đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự, Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.

2.2.5. Hòa giải trong tố tụng dân sự (Đ10)

Trong dân gian đã có câu “vô phúc đáo tụng đình”; song lại có câu “dĩ hòa vi quý”.

– Cơ sở:

+ Xuất phát từ quyền tự quyết định và tự định đoạt của các đương sự.

+ Hòa giải là một phương thức giải quyết vụ án dân sự văn minh, có nhiều ưu điểm.

. Hòa giải thành thì không cần phải mở phiên tòa xét xử, giảm bớt một giai đoạn tố tụng kéo dài và cực kỳ phức tạp, tiết kiệm được thời gian, tiền của.

. Hòa giải thành giúp Tòa án giải quyết được mâu thuẫn giữa các đương sự, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết trong nhân dân.

. Hòa giải góp phần quan trọng vào việc nâng cao nhận thức và hiểu biết pháp luật, nâng cao trình độ dân trí, giáo dục nếp sống và làm việc theo pháp luật.

. Thông qua hòa giải giúp Tòa án có điều kiện nắm vững hơn nội dung vụ án, hiểu biết rõ hơn tâm tư, tình cảm của đương sự, từ đó xác định được đường lối giải quyết vụ án khi đưa vụ án ra xét xử.

– Nội dung:

Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nhóm nguyên tắc chung của Luật tố tụng dân sự Việt Nam?

Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng dân sự;
– Bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án;
– Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự;
– Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự;
– Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;
– Tòa án xét xử tập thể;
– Xét xử công khai;
– Thực hiện chế độ hai cấp xét xử;
– Giám đốc việc xét xử;
– Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng dân sự;
– Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự;
– Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng dân sự;
– Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự;
– Trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự;
– Trách nhiệm chuyển giao tài liệu, giấy tờ của Tòa án;
– Trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền;
– Việc tham gia tố tụng dân sự của cá nhân, cơ quan, tổ chức.

Nhóm nguyên tắc đặc thù của Luật tố tụng dân sự Việt Nam?

– Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự;
– Cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự;
– Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự;
– Hòa giải trong tố tụng dân sự.

5/5 - (28582 bình chọn)

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Nếu cần BQT hỗ trợ gấp, vui lòng liên hệ hotline 1900.0164 bấm phím 0.

1900.0164
Exit mobile version