Site icon Hocluat.VN

Những điểm mới về chủ tịch nước theo hiến pháp 2013 so với 1992

Chủ tịch nước qua các thời kỳ

Trong hoàn cảnh chiến tranh, Hồ Chí Minh là Chủ tịch nước, đứng đầu Chính phủ và kiêm chức vụ Thủ tướng. Đến năm 1955, chức vụ Thủ tướng được chuyển giao cho Phó Thủ tướng lúc đó là Phạm Văn Đồng đảm nhiệm và Hồ Chí Minh là Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được Quốc hội khóa II bầu lại và làm Chủ tịch đến khi Người mất ngày 2 tháng 9 năm 1969. Từ đó đến nay, vai trò lãnh đạo chính trị nói chung và của Chủ tịch nước nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng, ảnh hưởng đến thể chế, con người và toàn bộ đất nước. Tuy nhiên, lãnh đạo nói chung và đặc biệt vị trí đứng đầu nói riêng có xu hướng cá nhân hóa nếu địa vị của họ không được thiết lập một cách chặt chẽ và vững chắc trong Hiến pháp và pháp luật. Vì vậy, vai trò, chức năng và thẩm quyền của Chủ tịch nước cần phải được hiến định trong Hiến pháp.

Ở nước ta, việc hoàn thiện phương thức tổ chức và thực hiện quyền lực của Chủ tịch nước là một nội dung rất quan trọng trong quá trình hoàn thiện thể chế chính trị pháp lý Hiến pháp. Mặt khác chủ trương của Đảng thể hiện trong các Văn kiện Đại hội X, XI đặt ra những thay đổi chế định trong quá trình thiết kế và vận hành chính thể nói chung và chế định Chủ tịch nước nói riêng. Do đó, nghiên cứu chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp hiện nay có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Trải qua các thời kỳ lịch sử với 5 bản Hiến pháp, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế thừa những chế định cơ bản, quan trọng của Hiến pháp năm 1992 nhưng có những đổi mới, bổ sung mang tính phù hợp để thể hiện Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước Việt Nam, thống lĩnh các lực lượng vũ trang của Việt Nam và là nguyên thủ quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì thế, em xin chọn đề tài: “Những điểm mới về Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992” để tìm hiểu và nghiên cứu.

 

NỘI DUNG

I. Chế định Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 2013

Chế định Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 2013 được quy định tại chương VI với 8 điều và chỉ ngay sau chương V quy định về Quốc hội cho thấy vị trí quan trọng của Chủ tịch nước trong bộ máy nhà nước Việt Nam, có vai trò phối hợp quyền lực, là bảo đảm quan trọng cho việc thực hiện các chức năng đối nội, đối ngoại của nhà nước và cho hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp.

 

Điều 86:

Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.

 

Điều 87:

Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội.

Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.

Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu ra Chủ tịch nước.

 

Điều 88:

Chủ tịch nước có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

1. Công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh; đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày pháp lệnh được thông qua, nếu pháp lệnh đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất;

2. Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ;

3. Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán các Tòa án khác, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định đặc xá; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, công bố quyết định đại xá;

4. Quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương, các giải thưởng nhà nước, danh hiệu vinh dự nhà nước; quyết định cho nhập quốc tịch, thôi quốc tịch, trở lại quốc tịch hoặc tước quốc tịch Việt Nam;

5. Thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh; quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương;

6. Tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm; quyết định cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phong hàm, cấp đại sứ; quyết định đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước; trình Quốc hội phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế quy định tại khoản 14 Điều 70; quyết định phê chuẩn, gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế khác nhân danh Nhà nước.

 

Điều 89:

1. Hội đồng quốc phòng và an ninh gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên. Danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh do Chủ tịch nước trình Quốc hội phê chuẩn.

Hội đồng quốc phòng và an ninh làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số.

2. Hội đồng quốc phòng và an ninh trình Quốc hội quyết định tình trạng chiến tranh, trường hợp Quốc hội không thể họp được thì trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định; động viên mọi lực lượng và khả năng của đất nước để bảo vệ Tổ quốc; thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn đặc biệt do Quốc hội giao trong trường hợp có chiến tranh; quyết định việc lực lượng vũ trang nhân dân tham gia hoạt động góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.

 

Điều 90:

Chủ tịch nước có quyền tham dự phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, phiên họp của Chính phủ.

Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước.

 

Điều 91:

Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

 

Điều 92:

Phó Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội.

Phó Chủ tịch nước giúp Chủ tịch nước thực hiện nhiệm vụ và có thể được Chủ tịch nước uỷ nhiệm thay Chủ tịch nước thực hiện một số nhiệm vụ.

 

Điều 93:

Khi Chủ tịch nước không làm việc được trong thời gian dài thì Phó Chủ tịch nước giữ quyền Chủ tịch nước.

 

II. Những điểm mới về Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 2013

1. Những điểm mới về nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước.

a/ Về bố cục:

Nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 2013 được quy định tại Điều 88 còn theo Hiến pháp năm 1992 thì được quy định tại Điều 103. Dễ dàng nhận thấy, so với Điều 103 Hiến pháp năm 1992 thì Điều 88 Hiến pháp năm 2013 có sự thay đổi đáng kể về mặt bố cục. Nếu như Hiến pháp năm 1992 chia tách từng nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của Chủ tịch nước tại 12 khoản của Điều 103 thì Hiến pháp năm 2013 gom những nhiệm vụ và quyền hạn đó thành những nhóm, theo từng lĩnh vực, quy định tại 6 khoản của Điều 86. Đó là: Khoản 1 quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước trong lĩnh vự lập pháp; Khoản 2 quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước trong việc quyết định nhân sự của Chính phủ; Khoản 3 quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước trong lĩnh vực tư pháp và quản lý nhân sự của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Khoản 4 quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước trong việc khen thưởng, quốc tịch; Khoản 5 quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước trong lĩnh vực quốc phòng – an ninh; Khoản 6 quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước về đối ngoại.

b/ Về nội dung:

* Khoản 4 – Điều 103, Hiến pháp năm 1992 quy định Chủ tịch nước có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ phải căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Theo Hiến pháp năm 2013 thì quyền bổ nhiệm bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên Chính phủ chỉ cần căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội (Khoản 2 – Điều 88).

 

* Khoản 3 – Điều 88, Hiến pháp năm 2013 có nêu Chủ tịch nước có thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức tất cả các Thẩm phán. Còn Khoản 8 – Điều 103, Hiến pháp năm 1992 chỉ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Việc đổi mới này đã tái quy định thẩm quyền của người đứng đầu nhà nước trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp có ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị, pháp lý. Đó là tất cả các Thẩm phán dù ở bất kỳ cấp nào cũng đều nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện quyền tư pháp. Vì vậy, việc Chủ tịch nước thay mặt nhà nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán chính là việc trao hoặc tước quyền nhân danh nhà nước của Thẩm phán. Qua đó góp phần tăng tính độc lập trong hành động xét xử của Thẩm phán, để Thẩm phán thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền công dân, quyền con người, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

* Về vấn đề quốc tịch, Khoản 4 – Điều 88, Hiến pháp năm 2013 có điểm mới là Chủ tịch nước có thẩm quyền cho “trở lại quốc tịch” Việt Nam đối với người đã mất quốc tịch Việt Nam, khi có đơn xin trở lại quốc tịch Việt Nam thì có thể trở lại quốc tịch Việt Nam nếu thuộc một trong số những trường hợp sau:

+ Xin hồi hương về Việt Nam;

+ Có vợ, chồng, con, cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam;

+ Có công lao đóng góp cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam;

+ Có lợi cho Nhà nước Việt Nam;

Ngoài ra, người xin trở lại quốc tịch Việt Nam không được trở lại quốc tịch Việt Nam nếu làm phương hại đến lợi ích quốc gia Việt Nam.

Về thẩm quyền mới này của Chủ tịch nước đã cho thấy Việt Nam mở rộng cửa cho phép người mất quốc tịch Việt Nam trở lại quốc tịch Việt Nam mà không hề ngăn cấm, cấm đoán.

* Theo Hiến pháp năm 1992, Chủ tịch nước quyết định phong hàm, cấp sĩ quan cấp cao trong các lực lượng vũ trang nhân dân; hàm, cấp ngoại giao và những hàm cấp Nhà nước khác (Khoản 9 – Điều 103). Để làm rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm này của Chủ tịch nước trong việc thống lĩnh lực lượng vũ trang thì Khoản 5 – Điều 88 quy định việc phong hàm cấp tướng chỉ giao cho Chủ tịch nước thực hiện. Chủ tịch nước có quyền quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Như vậy, với quy định mới này, Hiến pháp năm 2013 đã phân định quyền “thống lĩnh” của Chủ tịch nước trong công tác quyết định nhân sự chỉ huy cấp cao trong lực lượng vũ trang (cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân, Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam) thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước. Tuy nhiên, việc chủ tịch nước quyết định nhân sự chỉ huy cấp cao trong lực lượng vũ trang luôn tuân thủ lãnh đạo của Đảng trong công tác cán bộ của lực lượng vũ trang. Vì thế, quy định mới này vừa đảm bảo nguyên tắc lực lượng vũ trang đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là sự thống lĩnh của Chủ tịch nước.

* Về công tác đối ngoại, theo Khoản 6 – Điều 88, Hiến pháp năm 2013 thì Chủ tịch nước quyết định đàm phán, kí điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước; quyết định phê chuẩn, gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế khác nhân danh Nhà nước. Trong khi theo Khoản 10 – Điều 103, Hiến pháp năm 1992 thì Chủ tịch nước vẫn đàm phán, kí kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quyết định phê chuẩn hoặc tham gia điều ước quốc tế (trừ trường hợp cần trình Quốc hội giải quyết) nhưng đàm phán, kí kết với người đứng đầu Nhà nước khác.

Điểm mới này hoàn toàn phù hợp với thực tiễn hiện nay trong công tác điều ước quốc tế của Chủ tịch nước vì Chủ tịch nước cũng như các nguyên thủ quốc gia khác trên thế giới không trực tiếp tiến hành đàm phán điều ước quốc tế mà thưởng ủy quyền cho cá nhân, cơ quan có thẩm quyền về lĩnh vực đó đàm phán như vậy vừa bất gánh nặng công việc cho Chủ tịch nước, vừa để các cơ quan, cá nhân đó đàm phán, kí kết đúng lĩnh vực sẽ hiệu quả hơn. Vì vậy, Hiến pháp năm 2013 đã quyết định rõ quyền quyết định việc đàm phán, kí kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước của Chủ tịch nước, Chủ tịch nước chịu trách nhiệm trước Quốc hội và nhân dân về đàm phán, kí kết các điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước. Ví dụ: Khi Việt Nam muốn đàm phán và kí kết với Nhật Bản để xây dựng cầu Nhật Tân thì không nhất thiết Chủ tịch nước trực tiếp đàm phán mà Chủ tịch nước có thể ủy quyền cho Bộ trưởng Bộ Xây dựng đi đàm phán thì việc đàm phán sẽ hiệu quả hơn vì Bộ trưởng Bộ Xây dựng am hiểu sâu hơn về lĩnh vực này.

2. Những điểm mới về Hội đồng quốc phòng và an ninh do Chủ tịch nước làm Chủ tịch

Khoản 2 – Điều 89, Hiến pháp năm 2013 quy định thẩm quyền của Hội đồng quốc phòng và an ninh do Chủ tịch nước làm Chủ tịch được trình Quốc hội quyết định tình trạng chiến tranh, trường hợp Quốc hội không thể họp được thì Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định; thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn đặc biệt do Quốc hội giao trong trường hợp có chiến tranh; quyết định việc lực lượng vũ trang nhân dân tham gia hoạt động góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.

Những quy định mới này là để làm rõ và cụ thể hơn thẩm quyền của thiết chế quan trọng này so với Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định trong trường hợp chiến tranh, Quốc hội có thể giao cho Hội đồng quốc phòng và an ninh những nhiệm vụ và quyền hạn đặc biệt (Điều 104 – Hiến pháp năm 1992). Việc Hội đồng quốc phòng và an ninh được bổ sung thêm nhiệm vụ và quyền hạn mới này cho thấy vai trò quan trọng của Hội đồng quốc phòng và an ninh do Chủ tịch nước đứng đầu trong việc bảo vệ hòa bình, an toàn khu vực và trên thế giới, góp phần không nhỏ trong việc bảo vệ Tổ quốc nhất là khi Việt Nam đang bị đe dọa bởi các nước láng giềng và âm mưu phản động trong và ngoài nước.

 

3. Những điểm mới về tham dự các phiên họp của Chủ tịch nước

Điều 90 – Hiến pháp năm 2013 quy định: “Chủ tịch nước có quyền tham dự phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, phiên họp của Chính phủ. Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước”. Trong khi theo Điều 105 – Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định khi xét thấy cần thiết, Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ.

Đây là một trong những điểm mới của Hiến pháp năm 2013. Bằng quy định mới này cho thấy thẩm quyền tham dự các phiên họp Chính phủ của Chủ tịch nước được đề cao hơn khi Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn nhưng với điều kiện là vấn đề cần họp bàn phải thực sự cần thiết và phù hợp với việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước. Điểm mới đề cao vai trò của Chủ tịch nước trong việc xem xét quyết định vấn đề lớn trong quản lí điều hành đất nước phù hợp với tình hình đất nước hiện nay có rất nhiều vấn đề lớn gây bức xức trong dư luận như: tham nhũng, ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội,… những vấn đề lớn này cần được Chủ tịch nước – người thay mặt cho nhân dân giải quyết trước Chính phủ. Có như vậy, Chủ tịch nước mới xứng đáng là người đứng đầu Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

III. Những điểm hạn chế về Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 2013 và Hiến pháp năm 1992.

Thứ nhất, điều kiện để trở thành Chủ tịch nước không khác so với điều kiện để trở thành Đại biểu Quốc hội bởi Hiến pháp năm 2013 và Hiến pháp năm 1992 đều quy định Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội, đồng thời không có quy định về quốc tịch, xuất thân, độ tuổi, trình độ,…để trở thành ứng viên làm Chủ tịch nước. Điều này có thể coi là hạn chế vì Chủ tịch nước là người đứng đầu một quốc gia, đại diện cho toàn bộ nhân dân, có vị thế rất lớn trong bộ máy nhà nước. Vì thế, điều kiện trở thành Chủ tịch nước cần phải co những quy định riêng, được các nhà làm luật xem xét sửa đổi. Có như vậy, nhân dân mới thực sự tin tưởng giao trách nhiệm cho Chủ tịch nước.

Thứ hai, Hiến pháp năm 2013 và Hiến pháp năm 1992 đều quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước trong công tác khen thưởng (tặng thưởng huân chương, huy chương, các giải thưởng, danh hiệu vinh dự nhà nước) mà không quy định trách nhiệm của Chủ tịch nước trong công tác thi đua. Điều này cũng cần được các nhà làm luật xem xét vì Chủ tịch nước phải gương mẫu trong công tác thi đua như: thi đua yêu nước, thi đua học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,… thì nhân dân, cơ quan trương ương đến địa phương mới học tập và noi theo. Từ đó mới đẩy mạnh việc thi đua mới thực sự có hiệu quả tối đa.

KẾT LUẬN

Trên đây là một số nhận định của em về điểm mới của Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992 cũng như một số điểm hạn chế. Những chế định về Chủ tịch nước trong bản Hiến pháp năm 2013 đã tiến một bước phát triển dài trên con đường hoàn thiện và phát triển. Điều đó sẽ tạo nền tảng pháp lý cao nhất để Chủ tịch nước thực hiện đầy đủ quyền hạn và nhiệm vụ của mình đưa đất nước thành một nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Mong rằng, qua bài viết này, em đã giúp mọi người hiểu rõ phần nào các chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 2013 cũng như Hiến pháp năm 1992 và những điểm mới của Hiến pháp năm 2013. Từ đó, khẳng định chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân. Sự hiểu biết của em vẫn còn nhiều hạn chế, rất mong được thầy cô và các bạn góp ý để bài làm thêm phong phú, hoàn chỉnh hơn.

Các tìm kiếm liên quan đến những điểm mới về chủ tịch nước theo hiến pháp 2013 so với hiến pháp 1992, chế định chủ tịch nước trong hiến pháp 2013 so với hiến pháp 2992, những điểm mới về chủ tịch nước theo hiến pháp 2013 so với hiến pháp 1946, so sánh chế định chủ tịch nước qua 5 bản hiến pháp, chế định chủ tịch nước qua các bản hiến phá,p chế định chủ tịch nước trong hiến pháp 2013, chế định chủ tịch nước trong hiến pháp 1946, so sánh chế định chủ tịch nước theo hiến pháp 1980 và hiến pháp 2013, giải thích khoản 1 điều 88 hiến pháp 2013, so sánh chế định chủ tịch nước qua các bản hiến pháp, vị trí pháp lý của chủ tịch nước

 


Các tìm kiếm liên quan đến Những điểm mới về chủ tịch nước theo hiến pháp 2013 so với 1992, bảng so sánh hiến pháp 1992 và 2013, điểm mới của hiến pháp 2013, so sánh chế định chủ tịch nước qua 5 bản hiến pháp, so sanh hiến pháp 1992 và 2013, hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung năm 2013, so sánh hiến pháp 1992 và 2013 về quyền con người, so sánh hiến pháp 1980 và 2013, điều 119 hiến pháp 2013

5/5 - (1 bình chọn)

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Nếu cần BQT hỗ trợ gấp, vui lòng liên hệ hotline 1900.0164 bấm phím 0.

1900.0164
Exit mobile version