Chế độ tài sản theo thỏa thuận (chế độ tài sản ước định) không còn là điều mới lạ với nhiều quốc gia trên thế giới, ngược lại, nó đã tồn tại từ rất sớm. Phần lớn các quốc gia phát triển trên thế giới hiện nay đều qui định cả hai chế định tài sản vợ chồng: theo pháp luật và theo thỏa thuận, tiêu biểu như Pháp, Nhật Bản, Hoa kỳ, Bỉ, Trung Quốc và ngoài ra còn có Argentina và một số bang ở Mehico còn duy trì duy nhất một chế độ tài sản pháp định đối với vợ chồng.
Các nội dung liên quan:
- Yếu tố lỗi ảnh hưởng đển tỉ lệ tài sản được chia khi vợ chồng ly hôn
- Quy định của bộ luật dân sự 2015 về sở hữu chung của vợ chồng
Đặt vấn đề
Chế độ tài sản theo thỏa thuận (chế độ tài sản ước định) không còn là điều mới lạ với nhiều quốc gia trên thế giới, ngược lại, nó đã tồn tại từ rất sớm. Trước đây, người La Mã cổ đại khi kết hôn thường tự lập thỏa thuận trong đó ghi xác định trước quan hệ tài sản giữa họ với nhau trong cuộc sống tương lai, đồng thời cũng nêu rõ những điều kiện thừa kế tài sản khi một bên vợ (chồng) chết. Hiện tượng thể hiện sự độc lập không vụ lợi trong quan hệ tài sản của các bên nam nữ khi lập gia đình.
Phần lớn các quốc gia phát triển trên thế giới hiện nay đều qui định cả hai chế định tài sản vợ chồng: theo pháp luật và theo thỏa thuận, tiêu biểu như Pháp, Nhật Bản, Hoa kỳ, Bỉ, Trung Quốc và ngoài ra còn có Argentina và một số bang ở Mehico còn duy trì duy nhất một chế độ tài sản pháp định đối với vợ chồng. Trong khu vực, Trung Quốc trước đây không có qui định chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận, nay đã công nhận chế độ này. Nhật Bản vốn là quốc gia nặng về truyền thống cộng đồng và gia đình cũng đã có qui định về thỏa thuân vợ chồng đối với tài sản. Ở Việt Nam, chế độ tài sản này được quy định như một điểm mới rất tiến bộ trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, tồn tại song song cùng với chế độ tài sản theo luật định (được áp dụng khi vợ chồng không xác lập chế độ tài sản theo thoả thuận).
1. Chế độ tài sản theo thỏa thuận trong hệ thống pháp luật của một số quốc gia trên thế giới
1.1. Những vấn đề cơ bản trong pháp luật của Cộng hòa Pháp về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận
Thứ nhất, những vấn đề chung về chế độ tài sản thỏa thuận
Điều 1387 BLDS Pháp “công bố về nguyên tắc tự do lựa chọn chế độ tài sản giữa vợ chồng và đó là sự tự do có kiểm soát”. Theo quy định này thì: “Pháp luật chỉ điều chỉnh các quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi mà giữa họ không có thỏa thuận đặc biệt liên quan đến vấn đề này, miễn là các thỏa thuận đó không trái với đạo đức hoặc các quy định sau đây của pháp luật”. Quy định này đã gián tiếp cho phép các cặp vợ chồng trước ngưỡng cửa hôn nhân có quyền tự do đưa ra các quy tắc pháp lý áp dụng cho quan hệ tài sản giữa họ. Hoặc là chế độ tài sản họ tự xây dựng nên bằng hợp đồng hôn nhân hoặc bằng chế độ tài sản luật định.
Khi đã quyết định lựa chọn chế độ tài sản theo hợp đồng hôn nhân, pháp luật lại một lần nữa cho phép các bên lựa chọn, hoặc một trong số ba mô hình quan hệ tài sản được luật đề xuất hoặc họ tự thiết kế một mô hình quan hệ tài sản cho riêng họ trên cơ sở các dữ liệu mà pháp luật đề xuất. Sự tự do của các cặp vợ chồng là rất thực, rất hào phóng. Tuy nhiên, sự tự do này không phải là sự tự do không kiểm soát mà pháp luật đã đặt ra các giới hạn chủ yếu liên quan đến trật tự công cộng và đạo đức xã hội (Điều 1387), các giới hạn về một chế độ tài sản cơ bản cần tuân thủ theo luật dân sự Pháp “các thỏa thuận của vợ chồng không thể vi phạm các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ hôn nhân, không được vi phạm các quy tắc về thẩm quyền của cha mẹ hay trách nhiệm giám hộ”(Điều 1388). Hay giới hạn đề ra ở Điều 1389: “Thỏa thuận của vợ chồng không được gây tổn hại đến những quyền lợi được quy định bởi bộ luật này, các thỏa thuận của vợ chồng cũng không được làm chấm dứt hay thay đổi trật tự thừa kế theo pháp luật”… Như vậy, sự tự do của vợ chồng trong việc xây dựng chế độ tài sản thỏa thuận phải tuân thủ các quy tắc (hay các điều cấm) như đã đề cập ở trên. Tập hợp những quy tắc cần tuân thủ hay các hạn chế này gọi là chế độ tài sản cơ bản được thiết lập để duy trì trật tự công về gia đình.
Điều 1394 BLDS Pháp quy định: “Tất cả hợp đồng hôn nhân sẽ được soạn thảo bằng văn bản công chứng lập bởi Công chứng viên với sự hiện diện và sự đồng ý của tất cả các bên của hợp đồng hoặc người được ủy quyền của họ”. Tại thời điểm ký kết hợp đồng, Công chứng viên phải cấp cho mỗi bên một giấy chứng nhận (không tốn phí), trong đó nêu tên và nơi cư trú của Công chứng viên, họ, tên, nơi ở của cặp vợ chồng tương lai, ngày ký của hợp đồng. Giấy chứng nhận này cũng chỉ ra rằng, nó phải được giao cho viên chức hộ tịch trước khi đăng ký kết hôn.
Nếu giấy chứng nhận kết hôn không thể hiện rằng vợ chồng đã có thỏa thuận xác lập hợp đồng thì hai vợ chồng, đối với các bên thứ ba, được coi là kết hôn dưới chế độ tài sản luật định, trừ khi, trong các hành vi ký kết với bên thứ ba đó, họ cho biết đã thực hiện một hợp đồng hôn nhân.
Có thể thấy, BLDS Pháp yêu cầu một hình thức cũng như trình tự có liên quan đến việc xác lập hợp đồng hôn nhân rất chặt chẽ. Để đảm bảo rằng (bằng những yêu cầu về hình thức và thủ tục này) người thứ ba có thể dễ dàng tiếp cận với nội dung hợp đồng, để các giao dịch giữa vợ, chồng với người thứ ba được thực hiện trên cơ sở thông tin rõ ràng để đảm bảo sự bình đẳng trong giao dịch. Điều này củng cố, một lần nữa, đề xuất trên đây về việc các bên kết hôn phải xuất trình với viên chức hộ tịch thoả thuận của họ về chế độ tài sản tại thời điểm kết hôn, và rằng viên chức hộ tịch phải ghi nhận thông tin này trong giấy đăng ký kết hôn là hoàn toàn hợp lý. Nó cần thiết cho một quy trình chặt chẽ và có kiểm soát đối với chế độ tài sản thoả thuận của vợ chồng.
Về hiệu lực của hợp đồng hôn nhân: Hợp đồng hôn nhân có hiệu lực phát sinh phụ thuộc vào quan hệ hôn nhân và chỉ có giá trị trong chừng mực quan hệ hôn nhân còn được duy trì. Điều này có nghĩa là nếu như không có quan hệ hôn nhân thì hợp đồng hôn nhân sẽ… không là gì cả. Với logic như vậy, Điều 1395 BLDS Pháp quy định: “Hợp đồng hôn nhân phải được soạn thảo trước khi kết hôn và không có hiệu lực cho đến ngày kết hôn”. Như vậy, kết hợp hai quy định ở Điều 1394 và 1395 đã dẫn ở trên, ta có một tình trạng như sau: (1) nếu tại thời điểm kết hôn mà không có bằng chứng (hay vợ chồng không đưa ra bằng chứng) cho sự tồn tại hợp đồng hôn nhân thì quan hệ hôn nhân giữa họ sẽ được xác lập trong tình trạng đặt dưới chế độ tài sản luật định; (2) nếu các bên đã xác lập hợp đồng hôn nhân nhưng sau đó vì các lý do cá nhân, quan hệ hôn nhân không được xác lập thì hợp đồng đã xác lập sẽ không có giá trị (không phát sinh hiệu lực).
Thứ hai, các mô hình quan hệ tài sản được đề xuất đối với chế độ tài sản thỏa thuận
Về cơ bản, BLDS Pháp đề xuất ba mô hình quan hệ tài sản giữa vợ và chồng cho chế độ tài sản thỏa thuận. Và một thực tế được nhiều học giả đồng tình là các mô hình đề xuất này đều dựa trên chế độ tài sản luật định, hay nói chính xác hơn là dựa trên mô hình quan hệ tài sản theo chế độ tài sản luật định.
Một là, mô hình quan hệ tài sản chung theo thỏa thuận
Mô hình quan hệ tài sản chung theo thỏa thuận là thể hiện rõ nhất của quan điểm rằng chế độ tài sản thỏa thuận theo hợp đồng hôn nhân là sự mô phỏng có điều chỉnh chế độ tài sản luật định. Với mô hình quan hệ tài sản này, người ta đã thống kê có sáu bổ sung có thể xoay quanh chế độ tài sản luật định.
Sáu bổ sung mà vợ chồng có thể đưa vào hợp đồng hôn nhân của mình trong chế độ tài sản chung theo thỏa thuận lần lượt có ý nghĩa như sau:
+ Theo quy định tại khoản 1 Điều 1497 BLDS Pháp: “Tài sản chung của vợ chồng bao gồm các động sản và những tài sản được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân”. Theo giải thích tại Điều 1498 BLDS Pháp: “Nếu vợ chồng thỏa thuận rằng động sản và những tài sản tạo ra trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của họ thì các tài sản chung sẽ bao gồm những tài sản chung thông thường theo chế độ tài sản luật định, các tài sản là động sản mà mỗi bên vợ, chồng đã xác lập quyền sở hữu tại thời điểm kết hôn, tài sản mà cá nhân mỗi bên vợ, chồng có quyền sở hữu do được tặng cho hay nhận thừa kế, trừ khi những người tặng cho hoặc để lại di sản đã có ý chí khác. Những tài sản riêng còn lại là những động sản mà xét về bản chất nó là tài sản riêng theo quy định tại Điều 1404 dưới chế độ tài sản theo luật định”.
Do vậy, với thỏa thuận đặc biệt này trong chế độ tài sản chung theo thỏa thuận, có thể hình dung khối tài sản chung của vợ chồng được làm tăng thêm về giá trị và số lượng từ phần động sản có trước khi kết hôn (những tài sản mà về bản chất thuộc về tài sản riêng trong chế độ tài sản luật định). Với tinh thần như vậy, một cách hợp lý, khối tài sản chung này cũng phải gánh chịu những khoản nợ mà về bản chất nợ này là nợ riêng của một bên vợ, chồng (Điều 1499). Dĩ nhiên, tài sản chung không gánh chịu toàn bộ nợ riêng mà phần gánh chịu này sẽ được xác định tương ứng với đóng góp của tài sản riêng vào tài sản chung.
+ Về điều khoản quản lý tài sản chung. Điều khoản này cho phép vợ chồng có quyền quản lý khối tài sản chung cùng nhau. Trên cơ sở của điều khoản, tất cả các giao dịch liên quan đến tài sản chung phải có chữ ký của cả hai vợ chồng (Điều 1503) trừ giao dịch liên quan đến việc bảo quản tài sản. Cũng phát sinh từ điều khoản này là trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng đối với các nghĩa vụ tài sản phát sinh.
+ Điều khoản về việc bồi thường cho một bên vợ hoặc chồng sau khi chấm dứt hôn nhân (do vợ, chồng chết, do ly hôn…). Điều khoản này cho phép trong trường hợp chấm dứt quan hệ tài sản, một bên vợ, chồng sẽ được quyền giữ lại một phần tài sản chung trên cơ sở có tính toán cân nhắc đến tổng thể giá trị tài sản chung tại thời điểm phân chia (Điều 1511 BLDS Pháp).
+ Điều khoản “tiên thủ” theo quy định tại Điều 1515 BLDS Pháp cho phép trong trường hợp một bên vợ, chồng chết thì bên còn sống có thể lấy đi trước tiên một hoặc một số tài sản chung (tiền hoặc tài sản cụ thể), việc trích này được ưu tiên thực hiện trước tất cả việc phân chia, kể cả chia di sản theo quy định của pháp luật.
+ Điều khoản về việc phân chia một cách bất bình đẳng giữa vợ, chồng khi chấm dứt quan hệ hôn nhân, chấm dứt quan hệ tài sản (Điều 1520 BLDS Pháp).
+ Điều khoản cộng đồng toàn bộ tài sản (Điều 1526 BLDS Pháp). Điều khoản này cho phép vợ chồng thỏa thuận toàn bộ các tài sản (động sản hay bất động sản, hiện có hay sẽ có trong tương lai) đều là tài sản chung. Loại thỏa thuận này cũng có ngoại lệ, đó là những tài sản được quy định tại Điều 1404 BLDS Pháp sẽ luôn là tài sản riêng.
Hai là, mô hình quan hệ tài sản riêng
Với chế độ tài sản riêng, đây là chế độ tài sản thường được các cặp vợ chồng mà một trong số họ điều hành các hoạt động kinh doanh chứa đựng nhiều rủi ro lựa chọn. Theo quy định tại Điều 1536 BLDS Pháp, “vợ chồng đã thỏa thuận trong hợp đồng hôn nhân rằng họ sẽ có chế độ tài sản riêng, mỗi bên sẽ giữ quyền quản lý, hưởng dụng và định đoạt tự do các tài sản riêng của mình. Mỗi người trong số họ một mình chịu trách nhiệm về các khoản nợ do mình gây ra trước hoặc trong quá trình hôn nhân, trừ trường hợp quy định tại Điều 220”.
Với chế độ tài sản này, thường trong hợp đồng hôn nhân các bên sẽ phải xác định rõ trách nhiệm của mỗi bên trong việc đóng góp để duy trì sự tồn tại của gia đình (chăm sóc giáo dục con hay chi phí nhà ở… Nếu không có thỏa thuận này thì phần đóng góp sẽ được xác định tương ứng với phần tài sản của mỗi bên. Việc chấm dứt quan hệ tài sản đối với mô hình quan hệ tài sản này rất đơn giản, mỗi bên sẽ lấy đi tài sản của riêng họ. Đối với những tài sản đã được mua chung bởi vợ chồng thì sẽ chia theo tỷ lệ góp tiền của họ ở thời điểm mua.
Với chế độ tài sản này, nợ của mỗi bên tạo ra sẽ là nợ riêng của người đó. Do đó, chế độ tài sản này thường được các cặp vợ chồng kinh doanh lựa chọn. Vì nó giúp bên vợ, chồng không trực tiếp kinh doanh không phải gánh chịu nợ mà chồng, vợ mình gây ra trong quá trình đầu tư, kinh doanh. Đặc biệt trong trường hợp người đầu tư kinh doanh bị tuyên bố phá sản.
Ba là, mô hình quan hệ tài sản chia sẻ khối tài sản tạo ra trong thời kỳ hôn nhân
Theo Điều 1569 BLDS Pháp: “Khi vợ chồng kết hôn dưới chế độ tài sản có sự chia sẻ khối tài sản tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, mỗi bên bảo toàn quyền của mình trong việc quản lý, hưởng dụng và định đoạt tự do các tài sản thuộc sở hữu riêng của mình, mà không phân biệt giữa những tài sản đã có quyền sở hữu vào ngày kết hôn hoặc được thừa kế hay tặng cho sau ngày kết hôn. Trong thời kỳ hôn nhân, chế độ tài sản này vận hành như là vợ chồng đã kết hôn theo chế độ tài sản riêng. Tại thời điểm chấm dứt quan hệ tài sản, mỗi bên vợ, chồng được quyền chia một nửa giá trị của các tài sản và được đo lường bằng cách ước tính bằng chênh lệch giữa tài sản ban đầu và tài sản tại thời điểm phân chia. Quyền được chia này là không thể thực hiện chừng nào quan hệ tài sản còn chưa chấm dứt. Nếu quan hệ tài sản chấm dứt do vợ, chồng chết, những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia trên phần tài sản còn lại”.
Các tài sản được xem là “tài sản ban đầu” thông thường bao gồm những tài sản mà vợ chồng đã có quyền sở hữu ở thời điểm kết hôn… Pháp luật yêu cầu mỗi bên phải xác lập bằng chứng về các “tài sản ban đầu” này bằng văn bản xác nhận (có thể văn bản thường không cần công chứng). Tuy nhiên, văn bản xác nhận (hay bản tự khai tài sản này) phải có chữ ký xác nhận của bên vợ, chồng còn lại. Các tài sản ban đầu nhưng đã được định đoạt trong thời kỳ hôn nhân (bán, tặng, cho) vẫn phải được kể đến khi tính toán để phân chia. Nếu tại thời điểm thanh lý quan hệ tài sản mà tài sản hiện có cuối cùng ít hơn so với tài sản gốc ban đầu của vợ (chồng), thì khoản thiếu hụt của bên nào bên ấy sẽ phải chịu. Và đương nhiên, bên còn lại thì không được chia (Điều 1575 BLDS Pháp).
Mô hình quan hệ tài sản này rõ ràng là rất có lợi cho những người có thu nhập kém trong thời kỳ hôn nhân và có sự chênh lệch lớn trong thu nhập của hai vợ chồng.
1.2. Những vấn đề cơ bản trong pháp luật của Bỉ về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận
BLDS Bỉ được ban hành ngày 21/3/1804 và bắt đầu phát sinh hiệu lực ngày 13/9/1807. BLDS Bỉ gồm ba quyển, Quyển một về con người (cá nhân), Quyển hai về tài sản và Quyển ba về các phương thức xác lập quyền sở hữu. Phần về quan hệ tài sản giữa vợ, chồng được đặt ở Quyển 3 về các phương thức xác lập quyền sở hữu.
Cũng giống như mô hình của BLDS Pháp, luật Bỉ cũng cho phép vợ chồng có quyền tự do lựa chọn chế độ tài sản cho riêng mình. Theo quy định tại Điều 1390 BLDS Bỉ, “Trong trường hợp không có thỏa thuận đặc biệt giữa vợ chồng, các quy tắc được quy định tại Chương 2 phần này sẽ là luật chung để áp dụng”. Như vậy, nếu không có thỏa thuận đặc biệt, quan hệ tài sản giữa vợ, chồng sẽ đặt dưới chế độ tài sản luật định. Và “chế độ tài sản giữa vợ chồng, dù là chế độ luật định hay thỏa thuận, có hiệu lực tại thời điểm kết hôn, dù vợ chồng có thỏa thuận ngược lại” (Điều 1391 BLDS Bỉ).
Pháp luật giành phần lớn các quy định về quan hệ tài sản giữa vợ, chồng để điều chỉnh chế độ tài sản luật định. Một khi vợ chồng đã lựa chọn chế độ tài sản luật định, họ vẫn có quyền lập hợp đồng hôn nhân để bổ sung vào chế độ luật định những thỏa thuận đặc biệt của họ (Điều 1451 BLDS Bỉ).
Với chế độ tài sản thỏa thuận thiết lập theo hợp đồng hôn nhân, vợ chồng có một vài lựa chọn sau đây:
Thứ nhất, mô hình tài sản chung
Theo quy định tại Điều 1451 BLDS Bỉ, “Vợ chồng đã xác lập một chế độ cộng đồng tài sản (chế độ tài sản chung) thì không thể vi phạm các quy tắc của chế độ tài sản luật định có liên quan đến việc quản lý các tài sản riêng và chung của họ. Theo các quy định tại các Điều 1388 và 1389, họ có thể, theo hợp đồng hôn nhân, thực hiện bất kỳ thay đổi bổ sung nào vào chế độ tài sản luật định”. Một cách gián tiếp, quy định này thể hiện rằng, cũng giống như luật của Pháp và cũng là mô hình pháp luật áp dụng tại Việt Nam hiện nay, chế độ tài sản thiết lập theo các quy định của pháp luật xây dựng cho vợ chồng mô hình cộng đồng tài sản hay chế độ tài sản chung, cho phép công nhận hầu hết các tài sản tạo ra trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng.
Các thoả thuận mà vợ chồng có thể tiến hành để bổ sung thêm vào mô hình tài sản chung đã lựa chọn trong hợp đồng hôn nhân được gợi ý bao gồm các loại thỏa thuận có thể sau đây theo quy định cũng tại Điều 1451 BLDS Bỉ: (1) Thỏa thuận rằng các tài sản chung bao gồm tất cả hoặc một phần tài sản hiện tại và tương lai của vợ, chồng; (2) Thỏa thuận rằng giữa vợ, chồng chỉ tồn tại khối tài sản chung; (3) Thỏa thuận rằng một bên vợ, chồng sẽ được hưởng điều khoản “tiên hưởng”; (4) Thỏa thuận rằng trong trường hợp chấm dứt quan hệ hôn nhân bởi cái chết của một bên vợ, chồng, việc phân chia tài sản chung sẽ tiến hành một cách không bình đẳng hoặc tất cả các tài sản chung sẽ được chia cho một bên vợ, chồng.
Thứ hai, mô hình tài sản riêng
Theo Điều 1466 BLDS Bỉ: “Nếu vợ chồng đã thỏa thuận trong hợp đồng hôn nhân rằng mô hình tài sản giữa họ là mô hình tài sản riêng thì mỗi người sẽ có tất cả các quyền trong việc quản lý, hưởng dụng và định đoạt tài sản của mình mà không ảnh hưởng đến việc áp dụng các quy định tại Điều 215; các hoa lợi lợi tức cũng là tài sản riêng của mỗi bên”.
Mô hình tài sản riêng giữa vợ, chồng không những chỉ tồn tại theo thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng hôn nhân mà còn có thể được áp dụng trong trường hợp có phán quyết của tòa án. Điều 1470 BLDS Bỉ quy định: “Mỗi bên vợ chồng hoặc đại diện theo pháp luật của họ có thể kiện yêu cầu áp dụng mô hình quan hệ tài sản riêng khi mà xuất hiện tình trạng bừa bãi của bên vợ chồng còn lại trong hoạt động kinh doanh, việc quản lý yếu kém hoặc mất mát của cải của vợ chồng và rằng việc duy trì chế độ tài sản hiện hữu là nguy hiểm cho lợi ích của bên vợ, chồng đưa ra yêu cầu”.
Một điểm cũng cần lưu ý và có thể là bài học kinh nghiệm tốt cho luật Việt Nam, đó là mô hình tài sản riêng giữa vợ, chồng còn được áp dụng trong việc “chung sống hợp pháp” giữa hai bên không phải là vợ chồng. Đây là trường hợp chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn mặc dù các bên chung sống thỏa mãn các điều kiện để kết hôn với nhau. Việc sống chung hợp pháp này theo quy định của luật Bỉ cũng phải được đăng ký tại cơ quan đăng ký hộ tịch theo trình tự, thủ tục luật định với các yêu cầu khá chặt chẽ. Việc sống chung này cũng làm phát sinh quan hệ thừa kế giữa họ với nhau theo quy định của pháp luật. Việc chung sống hợp pháp này có thể chấm dứt rất đơn giản bằng thỏa thuận của hai bên, bằng việc một trong hai bên kết hôn với người khác hoặc bằng tuyên bố đơn phương chấm dứt quan hệ chung sống. Tuy nhiên, tuyên bố này phải hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, mô hình tài sản chung hoàn toàn.
Điều 1453 BLDS Bỉ quy định: “Nếu hai vợ chồng thỏa thuận rằng sẽ áp dụng mô hình cộng đồng tài sản với nhau, thì tất cả các tài sản hiện hữu và tương lai của họ sẽ đi vào tài sản chung, ngoại trừ những tài sản có đặc tính cá nhân, gắn liền mang tính tuyệt đối với người đó thì sẽ là tài sản riêng. Khối tài sản chung chịu trách nhiệm với tất cả các khoản nợ”. Mô hình tài sản chung này chỉ được quy định duy nhất tại Điều 1453 nêu trên. Riêng về vấn đề quản lý tài sản này như thế nào thì có quy định như sau: “Trừ khi có quy định khác trong hợp đồng hôn nhân, bên chồng hoặc vợ đã nhập vào tài sản chung những tài sản hiện hữu hay tương lai của mình mà không cần xác định cụ thể các tài sản này thì sẽ giữ lại quyền quản lý được cho phép theo quy định tại Điều 1425”. Trong khi đó, Điều 1425 xác định mỗi bên vợ, chồng có quyền quản lý một cách tuyệt đối đối với tài sản riêng của người đó mà không vi phạm các nguyên tắc trong quan hệ tài sản giữa vợ, chồng được quy định tại Điều 215 BLDS Bỉ.
1.3 . Những vấn đề cơ bản trong pháp luật của Thái Lan về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận
Không có Luật Hôn nhân và gia đình riêng biệt, phần về hôn nhân và gia đình cũng như về các quan hệ tài sản giữa vợ chồng được quy định chung trong BLDS và Thương mại thành một phần riêng.
Theo quy định của BLDS và Thương mại, trường hợp trước khi kết hôn, nếu vợ chồng không ký kết với nhau một thỏa thuận đặc biệt liên quan đến quan hệ tài sản giữa họ, thì mối quan hệ giữa họ liên quan đến tài sản sẽ được điều chỉnh bởi các quy định của Bộ luật này.
Bất cứ điều khoản nào trong thỏa thuận trước khi kết hôn (còn gọi là thỏa thuận tiền hôn nhân) trái với trật tự công cộng hoặc phong tục đạo đức tốt đẹp của xã hội, hoặc chỉ ra rằng mối quan hệ tài sản giữa họ sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật nước ngoài thì thỏa thuận đó sẽ không có hiệu lực.
Với quy định này, Bộ luật đã cho phép vợ chồng có thể xây dựng cho riêng họ các thỏa thuận tiền hôn nhân nhằm điều chỉnh quan hệ tài sản và có quy định khá chi tiết về các điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận tiền hôn nhân. Trường hợp các thỏa thuận tiền hôn nhân thuộc một trong những trường hợp sau thì sẽ không có giá trị pháp lý: (i) Không được xuất trình với cơ quan đăng ký kết hôn tại thời điểm đăng ký kết hôn; (ii) Không được thực hiện bằng văn bản, có chữ ký của cả hai vợ chồng và ít nhất hai người làm chứng; (iii) Không được đưa vào đăng ký kết hôn tại thời điểm đăng ký kết hôn với tư cách là một phần phụ lục của đăng ký kết hôn.
Việc thay đổi chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng được Bộ luật quy định: “Sau khi kết hôn, thỏa thuận tiền hôn nhân không thể bị thay đổi, ngoại trừ bởi thẩm quyền của Tòa án”.
Khi có phán quyết cuối cùng của Tòa án để thực hiện việc thay đổi, hủy bỏ thỏa thuận tiền hôn nhân, Tòa án phải thông báo vấn đề sửa đổi hoặc hủy bỏ này đến cơ quan đăng ký kết hôn để cơ quan này đưa nội dung đó vào đăng ký kết hôn.
Ngoài các điều khoản trong thỏa thuận tiền hôn nhân sẽ không có hiệu lực trong trường hợp tác động đến các quyền của người thứ ba ngay tình cho dù chúng được thay đổi hoặc hủy bỏ theo lệnh của Tòa án. Và bất kỳ thỏa thuận được ký kết giữa vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể được hủy bỏ bởi mỗi bên tại bất kỳ thời điểm nào trong thời kỳ hôn nhân hoặc trong vòng một năm kể từ ngày chấm dứt quan hệ hôn nhân; với điều kiện là sự hủy bỏ này không ảnh hưởng đến quyền của người thứ ba ngay tình.
1.4 . Những vấn đề cơ bản trong pháp luật của Trung Quốc về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận
Trước khi ban hành Luật hôn nhân 2001, hôn ước không được công nhận ở Trung Quốc. Năm 2001, Luật hôn nhân Trung Quốc bổ sung qui định mới liên quan đến tiền hôn nhân hay hôn ước. Điều 17 của luật này giữ nguyên qui định của luật cũ rằng tất cả thu nhập kiếm được và tài sản của các bên được coi là tài sản chung ngoại trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác (điều 19).Cụ thể, điều 19 qui định: “vợ hoặc chồng có thể, bằng thỏa thuận, ước định tài sản của mỗi bên trước và sau hôn nhân”. Hơn nữa, thỏa thuận này có thể qui định chế độ sở hữu tài sản, hoặc là sở hữu chung toàn bộ, hoặc là sở hữu chung một phần hoặc là sở hữu riêng. Tất cả những thỏa thuận này đều phải được thể hiện bằng văn bản. Nếu thỏa thuận này không rõ ràng hoặc thiếu thì qui định về chế độ sở hữu vợ chồng theo pháp luật được áp dụng.
Từ khi được công nhận, hôn ước ngày nay trở nên rất phổ biến ở những thành phố lớn của Trung Quốc như Thượng Hải, Bắc Kinh, đặc biệt là ở thế hệ trẻ. Chúng được biết đến như một chứng nhận tài sản trước hôn nhân.
1.5. Những vấn đề cơ bản trong pháp luật của Nhật Bản về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận
Nhật Bản là một quốc gia mang nặng nhiều biểu hiện phong kiến và bất bình đẳng giới. Hôn nhân một vợ một chồng của Nhật Bản mới được ghi nhận khoảng 100 năm trước vào đầu thời kì Minh Trị, ngay cả đến thời điểm hiện nay Nhật Bản cũng chỉ cho phép phụ nữ được tái giá sau 6 tháng kể từ ngày cuộc hôn nhân trước của họ chấm dứt và người vợ khi kết hôn thì phải mang họ chồng.
Về hình thức, không giống như pháp luật các quốc gia khác, Nhật Bản có riêng một văn bản pháp luật điều chỉnh về hình thức của hôn ước và vấn đề đăng kí hôn ước (Mặc dù tên tiếng anh của văn bản này được dịch theo các cách khác nhau: “Family Registration Act” hay “Matrimonial property agreement Registration Act” nhưng toàn bộ nội dung của nó chỉ nói về việc đăng kí hôn ước và hình thức của hôn ước).Về nội dung, nội dung của của hôn ước được qui định trong bộ luật dân sự (Civil Code) Điều 755 Bộ luật dân sự Nhật Bản ghi nhận quyền được lập hôn ước của các cặp vợ chồng: các quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng sẽ được tuân theo các qui định dưới đây nếu như vợ chồng không kí vào một hợp đồng qui định trước về tài sản của họ trước khi đăng kí kết hôn.
2. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật Việt Nam
Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thực chất là một hợp đồng thỏa thuận trên nguyên tắc tự do, tự nguyện. Nên vợ chồng có thể tự thỏa thuận và thỏa thuận cùng với nhau về việc xác lập và thực hiện quyền, nghĩa vụ đối với tài sản của họ. Thỏa thuận này được thể hiện dưới dạng văn bản: hôn ước, hợp đồng tiền hôn nhân hay thỏa thuận trước hôn nhân.
2.1. Thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng
Thứ nhất, điều kiện về hình thức
Theo quy định tại Điều 47 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì thỏa thuận xác lập chế độ tài sản vợ chồng phải tuân thủ những điều kiện về mặt hình thức. Cụ thể như sau: “Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn”.
Thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng là sự thể hiện ý chí, nguyện vọng, quyền lợi cũng như trách nhiệm của vợ, chồng về vấn đề tài sản, do đó thỏa thuận này phải được vợ, chồng lập thành văn bản và phải được công chứng hoặc chứng thực. Nếu thỏa thuận chỉ được lập bằng văn bản, có chữ ký của hai vợ chồng là chưa đủ và bị coi là không có giá trị do sai về hình thức. Do vậy, việc thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng được lập bằng văn bản và có công chứng hoặc chứng thực sẽ là cơ sở pháp lý vững chắc để bảo vệ quyền lợi của vợ, chồng cũng như đảm bảo cho vợ chồng có trách nhiệm thực hiện đúng những nội dung đã thỏa thuận, hạn chế các tranh chấp xảy ra liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng trong thực tế.
Thứ hai, điều kiện về nội dung
Theo quy định tại Điều 48 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ, chồng gồm những nội dung cơ bản sau:
“Nội dung cơ bản của thỏa thuận về chế độ tài sản bao gồm:
a) Tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng;
b) Quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình;
c) Điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản;
d) Nội dung khác có liên quan.
Khi thực hiện chế độ tài sản theo thỏa thuận mà phát sinh những vấn đề chưa được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng thì áp dụng các Điều 29, 30, 31 và 32 của Luật này và quy định tương ứng của chế độ tài sản theo luật định”.
Theo đó, những điều kiện về mặt nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bao gồm:
Một là, xác định tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận, những tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng. Trong văn bản thỏa thuận, trước hết vợ chồng cần xác định rõ những tài sản nào là tài sản riêng của mỗi bên và những tài sản nào là tài sản chung của vợ chồng. Vì khi xác định được phạm vi các loại tài sản, quyền sở hữu của mỗi bên thì vợ chồng sẽ thỏa thuận và thống nhất được với nhau các quyền cũng như nghĩa vụ đối với từng loại tài sản đó.
Hướng dẫn cụ thể hơn về vấn đề xác định tài sản của vợ chồng trong nội dung thỏa thuận, khoản 1 Điều 15 Nghị định số 126/2014/NĐ – CP đã quy định như sau:
“1. Trường hợp lựa chọn áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì vợ chồng có thể thỏa thuận về xác định tài sản theo một trong các nội dung sau đây:
a) Tài sản giữa vợ và chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng;
b) Giữa vợ và chồng không có tài sản riêng của vợ, chồng mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc tài sản chung;
c) Giữa vợ và chồng không có tài sản chung mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu riêng của người có được tài sản đó;
d) Xác định theo thỏa thuận khác của vợ chồng”.
Như vậy, khi xác định về trong nội dung thỏa thuận, vợ, chồng có thể xác định theo các nội dung sau: nếu giữa vợ và chồng có tài sản thì tài sản của vợ, chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng; giữa vợ và chồng không có tài sản riêng (tất cả tài sản có được trước và trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung); giữa vợ và chồng không có tài sản chung (tất cả tài sản có được trước và trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản riêng); hoặc được xác định theo thỏa thuận khác của vợ, chồng (ví dụ xác định hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng là tài sản chung).
Hai là, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình. Trên cơ sở xác định nội dung về tài sản trong thỏa thuận trước đó, vợ và chồng thỏa thuận về các quyền của mỗi bên đối với tài sản chung, tài sản riêng, cũng như những nghĩa vụ riêng, nghĩa vụ chung về tài sản.
Ba là, điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản. Xuất phát từ nhu cầu của mỗi bên, vợ chồng có thể thỏa thuận các điều kiện được đưa ra khi chấm dứt chế độ tài sản theo thỏa thuận và xác định trong những trường hợp nào một bên hoặc cả hai bên vợ chồng có quyền yêu cầu chấm dứt chế độ tài sản này. Khi chấm dứt chế độ tài sản theo thỏa thuận, tài sản sẽ được chia cho vợ chồng theo thỏa thuận hoặc theo yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Về nguyên tắc, tài sản có thể chia theo cách thức chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân hoặc theo nguyên tắc phân chia khác do hai vợ chồng tự thỏa thuận thống nhất với nhau. Khi có tranh chấp xảy ra, việc giải quyết tranh chấp được ưu tiên áp dụng theo thỏa thuận của vợ chồng.
Bốn là, ngoài những nội dung chủ yếu nêu trên, vợ chồng còn có thể thỏa thuận những nội dung khác (vấn đề cấp dưỡng cho cha, mẹ, con…) liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh của mỗi bên.
2.2. Cung cấp thông tin về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong giao dịch với người thứ ba
Điều 16 Nghị định số 126/2014/NĐ – CP quy định: “Trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được áp dụng thì khi xác lập, thực hiện giao dịch, vợ, chồng có nghĩa vụ cung cấp cho người thứ ba biết về những thông tin liên quan; nếu vợ, chồng vi phạm nghĩa vụ này thì người thứ ba được coi là ngay tình và được bảo vệ quyền lợi theo quy định của BLDS”.
Đây là quy định minh bạch hóa thông tin, khả năng tài chính của vợ chồng cũng như bảo vệ quyền lợi cho người thứ ba trong giao dịch với vợ, chồng khi vợ chồng lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận. Những thông tin liên quan đến vợ chồng cần cung cấp cho người thứ ba biết có thể là quyền sở hữu, định đoạt tài sản của vợ chồng; tài sản riêng, tài sản chung; quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đối với tài sản chung cũng như quyền xác lập giao dịch với người thứ ba của vợ chồng…Việc cung cấp thông tin liên quan cho người thứ ba trong giao dịch với vợ chồng được pháp luật quy định là nghĩa vụ của vợ chồng. Nếu vi phạm nghĩa vụ này thì người thứ ba được coi là ngay tình vẫn được bảo vệ quyền lợi theo quy định của BLDS.
Theo quy định tại Điều 33 BLDS năm 2015, thì quyền lợi của người thứ ba ngay tình được pháp luật bảo vệ trong những trường hợp sau:
Một là, trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 167 của Bộ luật này.
Hai là, trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu.
Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa.
Ba là, chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều này nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.
Như vậy, trong trường hợp vợ chồng thống nhất lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận khi giao dịch với người thứ ba, vợ chồng có nghĩa vụ cung cấp các thông tin liên quan cho người thứ ba biết. Trường hợp người thứ ba không biết, vẫn xác lập giao dịch, giao dịch bị vô hiệu vì bất kỳ lý do gì do vợ chồng vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin theo quy định của pháp luật thì quyền lợi của người thứ ba ngay tình vẫn được pháp luật ưu tiên bảo vệ.
2.3. Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu
Khoản 1 Điều 50 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Không tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan;
b) Vi phạm một trong các quy định tại các điều 29, 30, 31 và 32 của Luật này;
c) Nội dung của thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình.
Để làm rõ các trường hợp thỏa thuận về chế độ tài sản bị vô hiệu Điều 6 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“1. Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng có thể bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ hoặc vô hiệu một phần.
a) Trường hợp thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định được áp dụng.
b) Trường hợp thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị tuyên bố vô hiệu một phần thì các nội dung không bị vô hiệu vẫn được áp dụng; đối với phần nội dung bị vô hiệu thì các quy định tương ứng về chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định được áp dụng.
Tòa án quyết định tuyên bố thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu khi thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật hôn nhân và gia đình và lưu ý một số trường hợp sau đây:
a) Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu do vi phạm quyền được bảo đảm chỗ ở của vợ, chồng quy định tại Điều 31 và điểm b khoản 1 Điều 50 của Luật hôn nhân và gia đình là trường hợp thỏa thuận đó cho phép một bên được quyền định đoạt nhà ở là nơi ở duy nhất của vợ chồng dẫn đến vợ, chồng không có chỗ ở hoặc không bảo đảm chỗ ở tối thiểu về diện tích, điều kiện sinh hoạt, an toàn, vệ sinh môi trường theo quy định của pháp luật về nhà ở.
b) Nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu do vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và các thành viên khác của gia đình quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 của Luật hôn nhân và gia đình là trường hợp thỏa thuận đó nhằm trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng quy định từ Điều 110 đến Điều 115 của Luật hôn nhân và gia đình hoặc để tước bỏ quyền thừa kế của những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự hoặc vi phạm các quyền, lợi ích hợp pháp của cha, mẹ, con và các thành viên khác của gia đình đã được Luật hôn nhân và gia đình và pháp luật khác có liên quan quy định.
Trong thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, pháp luật đã quy định rõ hình thức, nội dung cũng như điều kiện có hiệu lực của văn bản thỏa thuận. Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, nếu được xác lập mới phải được lập trước khi kết hôn, được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật và có hiệu lực kể từ ngày đăng ký kết hôn; nếu thỏa thuận được sửa đổi, bổ sung một phần hoặc toàn bộ nội dung sau khi đã kết hôn thì vợ chồng được sửa đổi, bổ sung trong thời kỳ hôn nhân và thỏa thuận sửa đổi, bổ sung đó có hiệu lực kể từ ngày văn bản thỏa thuận sửa đổi, bổ sung được công chứng hoặc chứng thực.
Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng xét về bản chất là một giao dịch dân sự có sự tham gia của hai bên trong giao dịch. Theo quy định của Luật Dân sự, Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự; Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
Bên cạnh đó, khi xây dựng Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, nhà làm luật đã xây dựng các nguyên tắc áp dụng cho chế độ tài sản của vợ chồng. Đây là những nguyên tắc chủ đạo, mang tính nền tảng và định hướng được áp dụng không phụ thuộc vào chế độ tài sản mà vợ chồng lựa chọn (chế độ tài sản theo thỏa thuận hoặc chế độ tài sản luật định). Trong trường hợp một số vấn đề trong nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng chưa được thỏa thuận hoặc thỏa thuận chưa rõ ràng sẽ được áp dụng theo các quy định của nguyên tắc này (các điều 29, 30, 31, 32) Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và các quy định tương ứng của chế độ tài sản luật định. Nguyên tắc này được ưu tiên dẫn chiếu áp dụng trong trường hợp phát sinh tranh chấp liên quan đến vấn đề tài sản của vợ chồng nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ, chồng cũng như các thành viên trong gia đình; bảo vệ và củng cố mục tiêu xây dựng gia đình bình đẳng, tiến bộ, ấm no, hạnh phúc theo tinh thần của Luật Hôn nhân và Gia đình, chủ trương của Đảng và Nhà nước, nguyện vọng và nhân dân. Chỉ cần thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng vi phạm một trong các quy định về nguyên tắc chung của chế độ tài sản của vợ chồng thì thỏa thuận đó bị coi là vô hiệu.
Ngoài ra, để bảo vợ quyền, lợi ích chính đáng; quyền được cấp dưỡng, nuôi dưỡng; quyền được thừa kế của cha, mẹ, con và các thành viên khác trong gia đình, khi vợ chồng xác lập thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng thì nội dung của thỏa thuận phải đảm bảo thực hiện đầy đủ nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng; đảm bảo quyền được hưởng di sản thừa kế của cha, mẹ, con và các thành viên khác trong gia đình.
Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác. Những người có quyền cấp dưỡng là những người mà theo quy định của pháp luật có quyền được người khác nuôi dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; giữa vợ và chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình.
Pháp luật cũng quy định, cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Theo quy định trên thì bất kỳ người nào cũng có quyền được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật.
Do vậy, thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng sẽ bị vô hiệu nếu nội dung của thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình.
Với quy định trên, pháp luật tạo điều kiện cho phép vợ chồng tự do thỏa thuận định đoạt tài sản của mình nhưng vẫn phải đảm bảo các nghĩa vụ về tài sản mà vợ chồng phải gánh chịu với người thứ ba và các thành viên trong gia đình. Quy định này cũng góp phần ngăn chặn những thỏa thuận được vợ chồng xác lập nhằm mục đích không lành mạnh, trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ dân sự làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người có liên quan; góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng được pháp luật công nhận của cha, mẹ, con và của các thành viên khác trong gia đình.
Như vậy, chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận đã đáp ứng kịp thời những mong muốn, nguyện vọng của người dân nói chung (vợ chồng nói riêng) trong đời sống xã hội; bảo đảm sự ổn định, trật tự trong các giao lưu dân sự giữa các cá nhân với nhau. Tuy nhiên, những quy định về chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số Điều và biện pháp thi hành của Luật Hôn nhân và Gia đình vẫn còn chung chung, chưa cụ thể, chưa đi sát vào thực tiễn cuộc sống, vẫn còn có những hạn chế, bất cập cần phải được nghiên cứu sửa đổi trong thời gian tới.
2. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
3. Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình.
4. Ths. Quách Văn Dương, Chế độ hôn nhân và chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Hôn nhân và Gia đình.
5. Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, NXB Tư pháp, 2008.
6. Jean PATARIN và Imre ZAJTAY, Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật đương đại, 1974, page 20-21.
7. Bộ luật Dân sự Pháp. Nguồn: http://www.nclp.org.vn
8. Bộ luật Dân sự Bỉ. Nguồn: http://www.nclp.org.vn
9. Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan. Nguồn: http://www.nclp.org.vn
10.https://luatduonggia.vn/su-thua-nhan-cua-mot-so-nuoc-tren-the-gioi-ve-che-do-tai-san-cua-vo-chong-theo-thoa-thuan/
11.http://www.lsvn.vn/nghien-cuu-trao-doi/phan-tich-nghien-cuu/che-do-tai-san-cua-vo-chong-theo-thoa-thuan-24166.html
Để lại một phản hồi Hủy