Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn nhận nhiệm vụ kiến quốc là “chính sách kháng chiến kiến quốc”[1], tức chính sách “kiến thiết quốc gia”[2] trong hoàn cảnh vừa kiến thiết, vừa kháng chiến chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước. Chính sách kiến quốc được ghi nhận trong Lời nói đầu Hiến pháp Việt Nam năm 1946. Đây được coi là nhiệm vụ cơ bản của dân tộc Việt Nam sau khi chính quyền đã thuộc về Nhân dân. Bài viết phân tích bản chất, nguyên tắc thực hiện chính sách kiến quốc trên nền tảng dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời liên hệ với các nhiệm vụ phát triển đất nước nhanh, bền vững được nhấn mạnh tại Đại hội XII của Đảng.
Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh, chính sách kiến quốc, dân chủ.
Abstract: When as alive, Ho Chi Minh considered the mandates of national tectonics as “the national resistance and tectonics policy”, which means the “national construction” policy in the context of the national construction with the national resistance against foreign invaders. The national tectonics policy was recognized in the Preamble to the Vietnamese Constitution of 1946. This is considered the basic mandate of the Vietnamese nation after the administration governance belonged to the People. This article provides the analysis of the nature and principles of the national tectonics policy on the basis of Ho Chi Minh thoughts; and also refers to the current mandates of the rapid and sustainable development emphasized at the 12th Congress of the Party.
Keywords: Ho Chi Minh thoughts; national tectonics policy; democracy
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách kiến quốc
Chính sách kiến quốc hay kiến thiết quốc gia (đất nước) phát triển được Chủ tịch Hồ Chí Minh nói đến trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Thuật ngữ ‘kiến quốc” cũng đã được ghi nhận trong Lời nói đầu Hiến pháp Việt Nam năm 1946. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách kiến quốc thể hiện ở ba vấn đề chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, chính sách kiến quốc thể hiện ở việc nhìn nhận cụ thể trong xây dựng (hoạch định) các chính sách phát triển kinh tế – xã hội của đất nước nói chung (phát triển quốc gia), phát triển các lĩnh vực ở các ngành, địa phương nói riêng. Hoạch định hay xây dựng chính sách kiến quốc đã được Hồ Chí Minh nhìn nhận như đầu vào của chính sách, mà cụ thể là việc đề ra các “khẩu hiệu” (mục tiêu) phát triển. Khẩu hiệu được coi là khâu đầu tiên của quy trình chính sách phát triển quốc gia. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “Chính sách đúng là nguồn gốc của thắng lợi”[3]; “Khẩu hiệu chính trị đúng, thì toàn dân thấy rõ phương hướng”, “khẩu hiệu đúng để động viên và lãnh đạo Nhân dân đấu tranh”[4]. Nói đến chính sách, trước hết phải nói đến mục tiêu (mục đích), bởi chính sách nào cũng phải xác định mục tiêu nhất định. Xây dựng chính sách mà không xác định rõ mục tiêu và phương pháp thực hiện sẽ làm cho cán bộ (người lãnh đạo, công chức, viên chức), Nhân dân mất phương hướng. Chẳng hạn, chính sách Việt Minh trong kháng chiến chống ngoại xâm là phải làm sao bảo đảm dân chủ, tạo sự đoàn kết để đạt mục tiêu thực hiện hòa bình cho đất nước, tức nói đến phương pháp; còn sau khi giành được chính quyền, “chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của Nhân dân”[5], tức nói đến mục tiêu. Hồ Chí Minh đã nêu rõ mục tiêu chính sách của Việt Minh như sau: “Chính sách Việt Minh là cốt giữ hòa bình”[6]; “Mục đích phấn đấu của Mặt trân dân tộc thống nhất là xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”[7]. Xây dựng chính sách đúng đắn tức là cần phải dựa trên cơ sở khoa học để xác định rõ các mục tiêu về số lượng (nhiều hay ít), về thời gian (ngắn hạn hay dài hạn) của chính sách. Hồ Chí Minh đã từng phê phán cán bộ xây dựng đường lối, chính sách (nghị quyết, khẩu hiệu) kiến thiết đất nước trong thời gian kháng chiến chống ngoại xâm còn biểu hiện chưa thiết thực, thậm chí đã vạch ra quá nhiều mục tiêu, nghị quyết, khẩu hiệu như sau: “Mục đích thì nêu ra nhiều khẩu hiệu quá… Nhiều đích quá thì loạn mất, không bắn trúng đích nào. Thậm chí không ai nhớ được những khẩu hiệu đó”[8].
Theo Hồ Chí Minh, trong xây dựng chính sách kinh tế, cán bộ cần phải biết xác định các mục tiêu mang tính thiết thực, hiệu quả, xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, phù hợp với nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Người đã nêu rõ: “Việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng”; “Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận…. Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa”[9]; rằng: “Mỗi chủ trương công tác đều phải căn cứ vào tình hình thực tế, vào kinh nghiệm rất phong phú của quần chúng, của cán bộ, của địa phương”[10]. Hiệu quả kinh tế luôn gắn với yếu tố “tiết kiệm” trong lao động, sản xuất và tiêu dùng; do vậy, theo Người, mục tiêu cần phải định hướng cho mỗi công dân vừa có ý thức cần cù, vừa biết tiết kiệm như sau: “Khẩu hiệu chung của toàn dân ta là cần kiệm xây dựng nước nhà”[11].
Thứ hai, nói đến chính sách kiến quốc là nói đến phương pháp (phương thức, cách thức) thực hiện (thực hành, thực thi) các chính sách, dự án phát triển cụ thể, như thực hiện chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Thực hiện các chính sách như vậy được nhìn nhận tương tự như đầu ra của chính sách kiến quốc. Phương pháp thực hiện được coi là khâu (nội dung) quan trọng của chính sách kiến quốc. Phương pháp thực hiện chính sách gắn liền với tổ chức của Nhà nước, đặc biệt là “cách làm việc” hay “cách lãnh đạo” của đội ngũ cán bộ trong Chính phủ. Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ về yêu cầu đối với tổ chức Chính phủ là cần phải bảo đảm trong sạch về bộ máy; đội ngũ cán bộ trong Chính phủ cần phải “biết làm việc”. Người viết rằng: “Chính phủ sau đây là một chính phủ liêm khiết”, “Chính phủ sau đây là một chính phủ biết làm việc, có gan góc, quyết tâm đi vào mục đích trong thì kiến thiết, ngoài thì tranh thủ độc lập và thống nhất của nước nhà”[12].
Thứ ba, chính sách kiến quốc là nói đến nguyên tắc cân bằng, tức bảo đảm công bằng, bình đẳng (tính hiệu quả) xã hội trong việc thực hiện chính sách. Điều này được nhìn nhận tương tự như sự cân đối giữa đầu vào, đầu ra (mục tiêu, phương pháp) trong thực hiện chính sách kiến quốc. Chính sách đạt được hiệu quả (công bằng xã hội) sau khi thực hiện được coi là thước đo tính đúng đắn của chính sách; tức nói đến sự đúng đắn trong thực hiện chức năng kiến thiết (kiến tạo) quốc gia phát triển của đội ngũ cán bộ trong bộ máy nhà nước mà trọng tâm là Chính phủ. Theo Hồ Chí Minh, hiệu quả của việc thực hiện chính sách kiến quốc thể hiện chủ yếu ở các nội dung chủ yếu, như: bảo đảm sự cân đối giữa phát triển công nghiệp và nông nghiệp, giữa miền xuôi và miền ngược, sự cân đối giữa bỏ vốn (đầu tư) vào sản xuất trong khu vực công (đầu tư của nhà nước – công) và khu vực tư nhân (đầu tư của xã hội – doanh nghiệp); hay sự công bằng, bình đẳng về giá trị (văn hóa), quyền lợi (kinh tế), tinh thần (chính trị) giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng. Bảo đảm các tiêu chí này được coi là hiệu quả thực hiện chính sách. Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Dân đủ ăn đủ mặc thì những chính sách của Đảng và Chính phủ sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay đến mấy thì cũng không thể thực hiện được”[13]. Hiệu quả của việc thực hiện chính sách với các tiêu chí nêu trên được coi là biểu hiện “khéo” lãnh đạo, hay “nghệ thuật” lãnh đạo của các công chức chính trị làm chức năng thực thi chính sách. Khéo lãnh đạo thể hiện ở tập thể và cá nhân lãnh đạo. Tập thể lãnh đạo khéo thể hiện ở sự sáng suốt của các cá nhân, đồng thời tập thể biết tôn trọng các quan điểm, chính kiến khác nhau của cá nhân trong Quốc hội, Hội đồng Nhân dân để xây dựng mục tiêu, chính sách. Cá nhân lãnh đạo khéo thể hiện ở việc cá nhân (thành viên) trong Chính phủ, Ủy ban Nhân dân đưa ra nhiều sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong việc thực hiện các chính sách, như: khéo thuyết phục, động viên; khéo sử dụng cán bộ, người lao động; khéo kiểm tra, kiểm soát trong quá trình thực hiện chính sách. Khéo lãnh đạo của cán bộ là đối lập với thủ đoạn trong lãnh đạo – đặc tính cơ bản của “thủ đoạn chính trị”[14]. Khéo hay nghệ thuật lãnh đạo được coi là nguyên tắc trong lãnh đạo bảo đảm hiệu quả. Bởi hiệu quả trong lãnh đạo được đo bằng việc đặt lợi ích của Tổ quốc, Nhân dân lên trên lợi ích của cá nhân, nhóm mình. Hồ Chí Minh đã từng viết rằng: “nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là nguyên tắc tối cao của chính quyền dân chủ ta: mọi việc đều đặt lợi quyền của Tổ quốc lên trên”[15]; “cách làm việc, cách tổ chức, nói chuyện, tuyên truyền, khẩu hiệu, viết báo v.v.. của chúng ta, đều phải lấy câu này làm khuôn phép: “Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng”[16].
Nói cách khác, hiệu quả chính trị của thực hiện chính sách kiến quốc được đo bằng sự phát triển, tức bảo đảm sự công bằng, bình đẳng xã hội ở các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ đó đem lại niềm tin cho Nhân dân; trong đó, phát triển kinh tế là thước đo về sức mạnh vật chất của quốc gia, còn phát triển văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần cho Nhân dân là thước đo về sức mạnh trí tuệ, tri thức của quốc gia. Hiệu quả xã hội của thực hiện chính sách kiến quốc được đo bằng sự tiết kiệm trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, tiêu dùng; trong đó, tiết kiệm về sản xuất là thước đo bảo vệ tài nguyên của quốc gia, còn tiết kiệm trong kinh doanh, dịch vụ, tiêu dùng là thước đo bảo vệ con người và chế độ của quốc gia.
2. Bản chất nền tảng dân chủ của chính sách kiến quốc theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Dân chủ được coi là nền tảng của chính sách kiến quốc. Tức để thực hiện các mục tiêu của quốc gia, thì chính sách được coi là phương pháp, còn dân chủ được coi là nguyên tắc. Thực hiện chính sách kiến quốc mà không trên nền tảng (nguyên tắc) dân chủ sẽ không thể đạt được mục tiêu phát triển, tức quốc gia không thể phát triển. Dân chủ là thuật ngữ được Hồ Chí Minh đề cập đến nhiều trong các bài viết và nói của mình. Khái niệm dân chủ là bao hàm các thuật ngữ “dân” và “chủ”. Dân là muốn nói đến Nhân dân – lực lượng gồm “bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử khác yêu nước”[17] – là “ông chủ”[18] các mục tiêu, chính sách của quốc gia; còn chủlà muốn nói đến chủ thể thực hiện các mục tiêu, chính sách của quốc gia là Nhân dân, tức chính Nhân dân là những chủ thể thực hiện, hay “thực hành dân chủ”[19] các chính sách theo nguyên tắc “pháp quyền”[20]. Nói cách khác, dân chủ là: Nhân dân là chủ và làm chủ theo nguyên tắc công bằng, bình đẳng giữa các cá nhân (nhóm) và cộng đồng (nhiều nhóm) trong quốc gia, xã hội loài người. Dân chủ có thể được hiểu là chủ quyền của Nhân dân – những công dân có chức năng là chủ, làm chủ khác nhau do phân công lao động về quyền lực, nhằm bảo đảm công bằng, bình đẳng về giá trị, quyền lợi, tinh thần của chính mình trong thể chế quốc gia cộng hòa.
Dân chủ vừa được nhìn nhận là mục tiêu (hình thức), tức nói đến các tiêu chí của dân chủ, vừa được nhìn nhận là phương pháp (nội dung) và nguyên tắc (tính chất) thực hiện mục tiêu, tức nói đến các động lực của dân chủ. Mục tiêu dân chủ chỉ có thể đạt được bằng việc thực hiện từng bước các tiêu chí dân chủ đặt ra. Mục tiêu hay tiêu chí, phương pháp, nguyên tắc thực hiện dân chủ càng rõ, có hiệu quả, bảo đảm được sự công bằng, bình đẳng về giá trị, quyền lợi, tinh thần của Nhân dân, thì dân chủ trong quốc gia càng được “mở rộng” hay dân chủ đã đạt đến “cao độ” – “dân chủ thực sự”[21]. Tức dân chủ thật sự phụ thuộc vào việc bảo đảm cả ba yếu tố cơ bản: mục tiêu, phương pháp và nguyên tắc thực hành dân chủ – các yếu tố gắn với thể chế quốc gia cộng hòa dân chủ. Thiếu mục tiêu, phương pháp, hoặc thiếu nguyên tắc dân chủ, pháp quyền thì sẽ không có quốc gia cộng hòa, dân chủ. Xây dựng, thực hiện nhà nước dân chủ – nhà nước của dân, do dân, vì dân, cũng tức là muốn nói tới xây dựng quốc gia cộng hòa, dân chủ – quốc gia gắn với hiến pháp, các đạo luật, gắn với quyền tự do của người dân, như quyền tự do bầu cử, lập hội, báo chí, biểu tình, gắn với sự công khai, minh bạch, công tâm, trách nhiệm của các công chức, viên chức trong bộ máy nhà nước. Giá trị, quyền lợi, tinh thần của Nhân dân – “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” – được coi là mục tiêu chung của quốc gia dân chủ; còn việc thực hiện các mục tiêu đó bởi Nhân dân, các công chức, viên chức, tức bởi các công dân trong bộ máy nhà nước và ngoài xã hội, được coi là phương pháp, nguyên tắc thực hành dân chủ.
3. Giải pháp thực hiện chính sách kiến quốc trên nền tảng dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Chính sách kiến quốc được thể hiện chủ yếu ở phương pháp, nguyên tắc thực hiện các nhiệm vụ mục tiêu phát triển đất nước. Trong bối cảnh hiện nay, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ trọng tâm là “phát triển đất nước nhanh, bền vững”[22] nhằm thực hiện các mục tiêu xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm này, theo chúng tôi, cần phải đảm bảo các nguyên tắc thực hiện như đã được Hồ Chí Minh chỉ ra trong Lời nói đầu của Hiến pháp Việt Nam năm 1946 như sau:
Thứ nhất, cần đảm bảo nguyên tắc “Đoàn kết toàn dân”[23] như một chính sách quốc gia nhằm phát triển đất nước. Hồ Chí Minh đã từng chỉ ra rằng: “Đoàn kết là một chính sách”[24]. Tức chính sách đoàn kết toàn dân là động lực to lớn để thực hiện phát triển đất nước nhanh, bền vững. Giữa “chính sách đoàn kết” và yếu tố động lực của “toàn dân” nhằm phát triển quốc gia thì chính sách đoàn kết có chức năng tạo sự công bằng, bình đẳng xã hội; còn yếu tố toàn dân (tất cả các cá nhân, nhóm, cộng đồng) có chức năng thực hiện các chính sách phát triển quốc gia. Điều đó có nghĩa, cần phải có sự nhận thức đúng đắn hơn về chính sách đoàn kết toàn dân giai đoạn hiện nay; tức cần có sự xác định rõ các mục tiêu, phương pháp và nguyên tắc đoàn kết toàn dân trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Tức là các khẩu hiệu (mục tiêu) trong chính sách kiến quốc của Đảng, Nhà nước áp dụng trong thời kỳ kháng chiến trước đây cần phải được thay đổi cho phù hợp với thực tiễn thực hiện các chính sách phát triển đất nước giai đoạn hiện nay. Điều đó có nghĩa, việc xác định phương pháp thực hiện mục tiêu lâu dài là phát triển đất nước nhanh, bền vững trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, tức phát triển kinh tế thị trường, xây dựng Nhà nước pháp quyền giai đoạn hiện nay cần phải dựa vào nguyên tắc của thiết chế “Dân chủ Cộng hòa”[25] như đã được ghi nhận trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945.
Thứ hai, cần đảm bảo nguyên tắc “quyền tự do dân chủ”[26] của Nhân dân nhằm thực hiện mục tiêu phát triển đất nước. Nguyên tắc này đã được xác định rõ trong lời nói đầu của Hiến pháp Việt Nam năm 1946. Điều đó có nghĩa, các chính sách phát triển đất nước hiện nay cần phải dựa trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo đảm quyền tự do dân chủ. Quyền tự do dân chủ là hiện tượng tự nhiên, hay quyền tự nhiên của con người. Quyền tự do dân chủ là muốn nói rằng, trong việc thực hiện chính sách phát triển đất nước, Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân cần phải được xây dựng, hoàn thiện; các cán bộ cần phải biết “phát huy quyền làm chủ của Nhân dân”[27], tức bảo đảm đầy đủ các giá trị (độc lập, tự do), tinh thần (hạnh phúc, niềm tin), quyền lợi (quyền lực, lợi ích) làm chủ của Nhân dân. Quyền tự do dân chủ trong quốc gia được nhìn nhận vừa là mục tiêu, tức đất nước được độc lập, Nhân dân được hưởng tự do, hạnh phúc; đồng thời, vừa là động lực, tức quốc gia cần phải được xây dựng theo thể chế dân chủ cộng hòa dựa trên cơ sở nguyên tắc pháp quyền để thực hiện mục tiêu. Trong mối quan hệ với chính sách phát triển đất nước, thì thể chế dân chủ cộng hòa cũng tương tự như nguyên tắc, còn chính sách phát triển đất nước tương tự như mục tiêu và phương pháp thực hiện. Nếu trong quốc gia mà thiếu quyền tự do dân chủ, hay thiếu thể chế dân chủ cộng hòa sẽ không thể thực hiện được các chính sách phát triển đất nước nhanh và bền vững.
Thứ ba, cần đảm bảo nguyên tắc “Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của Nhân dân”[28] trong chính sách phát triển đất nước. Nguyên tắc này là muốn nói đến sự cần thiết phải xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam theo hướng tinh gọn, minh bạch, hiệu quả. Mô hình Nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam bao gồm các cơ quan quyền lực Quốc hội (lập pháp), Chính phủ (hành pháp) và Tòa án Nhân dân, Viện kiểm sát Nhân dân (tư pháp) thực hiện kiến tạo phát triển. Trong mô hình này, các đại biểu Quốc hội có chức năng cơ bản là xây dựng pháp luật, hoạch định chính sách; các thành viên Chính phủ có chức năng cơ bản là điều hành thực hiện chính sách theo pháp luật; Tòa án Nhân dân, Viện kiểm sát Nhân dân có chức năng cơ bản là bảo đảm công bằng, bình đẳng, bảo vệ lẽ phải, công lý trong việc thực hiện các chính sách phát triển. Điều đó có nghĩa, trong việc thực hiện các chính sách phát triển đất nước hiện nay, các công chức chính trị cần phải phân định rõ vị trí (xây dựng mục tiêu), vai trò (đề ra phương pháp) và chức năng (xác định nguyên tắc) hoạt động của cộng đồng xã hội và các cơ quan quyền lực nhà nước, đặc biệt là Chính phủ và cơ quan tư pháp; đồng thời, cần phải biết tôn trọng “sự thật” – quy luật phát triển khách quan của tự nhiên và xã hội. Hồ Chí Minh đã từng nêu rõ: “kế hoạch sản xuất không được định theo cách quan liêu”, không được “chạy trước sự thật”, nếu không sẽ “gây ra thất vọng cho công cuộc xây dựng, gây mối khó khăn cho chính trị”[29]. Nói cách khác, trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, để thực hiện nhiệm vụ phát triển đất nước nhanh, bền vững, các nhà lý luận, thực tiễn chính trị có trọng trách của quốc gia cần phải nhận thức đúng đắn, biết phát huy vai trò của cộng đồng xã hội, đặc biệt là vai trò của Chính phủ kiến tạo trong quốc gia Việt Nam, tức xây dựng chính quyền “mạnh mẽ”; biết nâng cao vai trò của Quốc hội kiến tạo, tức xây dựng chính quyền “sáng suốt”; biết xây dựng vị trí độc lập của cơ quan tư pháp, tức bảo đảm được chính quyền “của Nhân dân” như Lời nói đầu của Hiến pháp Việt Nam năm 1946 đã xác định./.
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H., 1995, t. 7, tr. 232.
[2] Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980 và 1992), Nxb Chính trị Quốc gia, H., 1995, tr. 7.
[3] Hồ Chí Minh, Sđd, t. 5, tr. 520.
[4] Hồ Chí Minh, Sđd, t. 7, tr. 232.
[5] Hồ Chí Minh, Sđd, t. 7, tr. 572.
[6] Hồ Chí Minh, Sđd, t. 5, tr. 412.
[7]Hồ Chí Minh, Sđd, t. 10, tr. 604.
[8] Hồ Chí Minh, Sđd, t. 5, tr. 274.
[9] Hồ Chí Minh, Sđd, t. 5, tr. 297.
[10] Hồ Chí Minh, Sđd, t. 7, tr. 501.
[11]Hồ Chí Minh, Sđd, t. 10, tr. 66.
[12] Hồ Chí Minh, Sđd, t. 7, tr. 427.
[13] Hồ Chí Minh, Sđd, t. 7, tr. 572.
[14] Hồ Chí Minh, Sđd, t. 7, tr. 438.
[15] Hồ Chí Minh, Sđd, t. 5, tr. 398.
[16] Hồ Chí Minh, Sđd, t. 5, tr. 248.
[17] Hồ Chí Minh, Sđd, t. 7, tr. 219.
[18] Hồ Chí Minh, Sđd, t. 7, tr. 218.
[19] Hồ Chí Minh, Sđd, t. 12, tr. 249.
[20] Hồ Chí Minh, Sđd, t. 1, tr. 438.
[21] Hồ Chí Minh, Sđd, t. 6, tr. 356.
[22] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 217.
[23]Hiến pháp Việt Nam, tr. 7.
[24]Hồ Chí Minh, Sđd, t. 7, tr. 438.
[25]https://tuoitre.vn/tuyen-ngon-doc-lap-nuoc-viet-nam-dan-chu-cong-hoa-217980.htm
[26] Hiến pháp Việt Nam, Sđd, tr. 7.
[27] ĐCSVN, Sđd, tr. 219.
[28] Hiến pháp Việt Nam, Sđd, tr. 8.
[29]Hồ Chí Minh, Sđd, t. 6, tr. 498-499.
Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 9/2018.
PGS. TS. Nguyễn Hữu Đổng -ThS. Nguyễn Thành Trung
Để lại một phản hồi Hủy