Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ là một trong các biện pháp khẩn cấp tạm thời mà đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác yêu cầu Tòa án áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.
Theo quy định tại Điều 126 BLTTDS năm 2015 thì phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản và việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc cho việc thi hành án.
Ví dụ: A khởi kiện đến Tòa án yêu cầu B trả nợ số tiền 2 tỷ đồng. Trong quá trình giải quyết vụ án, A biết B đang tiến hành việc chuyển nhượng nhà đất là tài sản duy nhất của B cho người khác. Để ngăn chặn việc chuyển nhượng nhà đất của B, A có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là phong tỏa tài sản là nhà đất của B để đảm bảo cho việc thi hành án.
Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp đương sự có yêu cầu Tòa án đều áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ, ngay cả trong trường hợp việc yêu cầu là có căn cứ. Vì theo quy định tại khoản 4 Điều 133 BLTTDS năm 2015 thì Tòa án chỉ được phong tỏa tài sản có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ phải thực hiện. Mặc dù, quy định này chưa có Nghị quyết hướng dẫn nhưng nó cũng tương tự như quy định tại khoản 4 Điều 117 BLTTDS năm 2004 nên nội dung hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao vẫn còn hiệu lực để hướng dẫn với quy định tại khoản 4 Điều 133 BLTTDS 2015. Theo đó, Nghị quyết 02 hướng dẫn:
– Trong trường hợp người yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời yêu cầu phong tỏa tài sản có giá trị thấp hơn nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ thực hiện, thì Tòa án chỉ được phong tỏa tài sản có giá trị từ mức yêu cầu trở xuống.
Ví dụ: A khởi kiện yêu cầu B trả số tiền 2 tỷ đồng. Quá trình giải quyết vụ án, A chỉ yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản của B có giá trị 1 tỷ đồng thì Tòa án chỉ được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản B có giá trị từ 1 tỷ đồng trở xuống.
– Trong trường hợp người yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời yêu cầu phong tỏa tài sản để bảo đảm nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ phải thực hiện theo đơn khởi kiện, thì Tòa án chỉ được phong tỏa tài sản có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản đó trở xuống.
Ví dụ: A khởi kiện yêu cầu B trả số tiền 2 tỷ đồng. Quá trình giải quyết vụ án, A yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản của B thì Tòa án chỉ được phong tỏa tài sản B có giá trị từ 2 tỷ đồng trở xuống.
– Trong trường hợp tài sản bị yêu cầu phong tỏa là tài sản không thể phân chia được (không thể phong tỏa một phần tài sản đó) có giá trị cao hơn nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ phải thực hiện theo đơn khởi kiện, thì Tòa án giải thích cho người yêu cầu biết để họ làm đơn yêu cầu áp dụng phong tỏa tài sản khác hoặc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác. Nếu họ vẫn giữ nguyên đơn yêu cầu, thì Tòa án không chấp nhận đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của họ.
Ví dụ: A khởi kiện yêu cầu B trả số tiền 2 tỷ đồng. Quá trình giải quyết vụ án, A yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản của B là chiếc xe có giá trị 3 tỷ đồng. Trong trường hợp này, chiếc xe của B có giá trị cao hơn nghĩa vụ tài sản mà B phải thực hiện và là tài sản không thể phân chia, Tòa án không thể quyết định phong tỏa một phần chiếc xe. Do đó, Tòa án giải thích, hướng dẫn cho A làm đơn yêu cầu áp dụng phong tỏa tài sản khác hoặc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác. Nếu A vẫn giữ nguyên đơn yêu cầu, thì Tòa án không chấp nhận đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của A.
Như vậy, đối với trường hợp thứ ba, mặc dù người có nghĩa vụ có dấu hiệu tẩu tán tài sản và việc yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là có căn cứ nhưng nếu tài sản không thể phân chia và có giá trị lớn hơn nghĩa vụ phải thực hiện thì Tòa án cũng không thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ.
Vấn đề đặt ra, nếu người có nghĩa vụ không có tài sản khác và không thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà Tòa án không áp dụng biện pháp phong tỏa tài sản đó thì người có nghĩa vụ dễ dàng tẩu tán tài sản dẫn đến không còn tài sản để đảm bảo thi hành án. Thực tiễn kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự cũng có rất nhiều trường hợp người khởi kiện có đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là phong tỏa tài sản có giá trị của người có nghĩa vụ như là xe ô tô, quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất…, nhưng những tài sản trên có giá trị cao hơn nghĩa vụ tài sản của người có nghĩa vụ và không thể phân chia nên Tòa án không thể áp dụng biện pháp phong tỏa tải sản dẫn đến trường hợp người có nghĩa vụ khi thấy bị khởi kiện thì chuyển nhượng tài sản cho người khác để trốn tránh nghĩa vụ. Mặc dù bản án tuyên chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện nhưng thực tế không thể thi hành vì người có nghĩa vụ đã tẩu tán hết tài sản, không còn tài sản để thi hành án.
Để bảo đảm cho quyền, lợi ích chính đáng của các đương sự có quyền trong vụ án dân sự, đồng thời ràng buộc trách nhiệm của các đương sự có nghĩa vụ cần sửa đổi, bổ sung quy định về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ theo hướng: trường hợp tài sản bị yêu cầu phong tỏa có giá trị cao hơn nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện theo đơn khởi kiện, mà tài sản đó không thể phân chia nhưng người có nghĩa vụ không còn tài sản khác hoặc không thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác và yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là có căn cứ thì Tòa án vẫn áp dụng biện pháp phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ.
Đỗ Thị Thúy
VKSND tỉnh Lâm Đồng
Nguồn: Tạp chí Kiểm sát (kiemsat.vn)
Để lại một phản hồi Hủy