Căn cứ vào định nghĩa về hoạt động trung gian thương mại và các điều khoản quy định tại chương V Luật thương mại năm 2005, có thể thấy hoạt động trung gian thương mại theo pháp luật Việt Nam có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, hoạt động trung gian thương mại là loại hoạt động cung ứng dịch vụ thương mại do một chủ thể trung gian thực hiện vì lợi ích của bên thuê dịch vụ để hưởng thù lao.
Có thể thấy, trước hết hoạt động trung gian thương mại là hoạt động cung ứng dịch vụ thương mại. Đó là việc cung ứng các dịch vụ: Đại diện cho thương nhân; môi giới thương mại; uỷ thác mua bán hàng hoá và đại lí thương mại. Giống với các hoạt động cung ứng dịch vụ thương mại khác, bên thuê dịch vụ (bên giao đại diện, bên được môi giới, bên uỷ thác, bên giao đại lí) là bên có nhu cầu sử dụng dịch vụ và phải có nghĩa vụ trả thù lao cho bên thực hiện dịch vụ còn bên cung ứng dịch vụ (bên đại diện, bên môi giới, bên nhận uỷ thác, bên đại lí) là bên có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho bên thuê dịch vụ và được nhận thù lao. Tuy nhiên, các hoạt động dịch vụ trung gian thương mại có điểm khác biệt cơ bản so với các hoạt động cung ứng dịch vụ khác ở phương thức thực hiện. Các hoạt động cung ứng dịch vụ theo phương thức giao dịch trực tiếp, có sự tham gia của hai bên. Các bên tham gia quan hệ trực tiếp giao dịch với nhau, bàn bạc thỏa thuận nội dung giao dịch. Trong hoạt động dịch vụ trung gian thương mại có sự tham gia của ba bên, trong đó có bên trung gian nhận sự uỷ nhiệm của bên thuê dịch vụ để quan hệ với bên thứ ba. Điều đó có nghĩa là, bên trung gian làm cầu nối giữa bên thuê dịch vụ và bên thứ ba.
Các chủ thể tham gia hoạt động trung gian thương mại cụ thể là: Bên uỷ nhiệm (bên thuê dịch vụ, gồm một hoặc một số người), bên thực hiện dịch vụ (bên được uỷ nhiệm) và bên thứ ba (gồm một hoặc một số người). Trong các hoạt động dịch vụ trung gian thương mại này, bên được thuê làm dịch vụ là người trung gian nhận sự uỷ nhiệm của bên thuê dịch vụ và có thể thay mặt bên thuê dịch vụ thực hiện các hoạt động thương mại với bên (hoặc các bên) thứ ba. Khi giao dịch với bên thứ ba, thương nhân trung gian có thể sử dụng danh nghĩa của mình hoặc danh nghĩa của bên thuê dịch vụ, tuỳ thuộc loại hình dịch vụ mà họ cung ứng. Theo quy định của Luật thương mại năm 2005, trong trường hợp thực hiện dịch vụ đại lí thương mại, uỷ thác mua bán hàng hoá hoặc môi giới thương mại, thương nhân trung gian sử dụng danh nghĩa của chính mình khi giao dịch với bên thứ ba, điều đó có nghĩa là tự họ phải chịu trách nhiệm về các hành vi của mình. Đối với dịch vụ đại diện cho thương nhân thì thương nhân trung gian sẽ nhận sự uỷ quyền và nhân danh bên giao đại diện để giao dịch với bên thứ ba, do đó những hành vi do bên đại diện thực hiện trong phạm vi được uỷ quyền trực tiếp đem lại hậu quả pháp lí cho bên giao đại diện.
Trong các hoạt động trung gian thương mại, bên thuê dịch vụ sẽ yêu cầu bên thực hiện dịch vụ thay mặt mình hoặc giúp mình quan hệ với bên thứ ba để mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại. Do đó, bên trung gian sẽ có nhiệm vụ tìm hiểu thị trường, tìm hiểu đối tác, đàm phán giao dịch với bên thứ ba để thực hiện việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ cho bên uỷ nhiệm (bên thuê dịch vụ) theo yêu cầu của họ. Hoạt động dịch vụ trung gian thương mại khác với các hoạt động dịch vụ có liên quan đến bên thứ ba như: Dịch vụ vận tải, dịch vụ giao nhận hàng hoá… ở chỗ những dịch vụ này được thực hiện trực tiếp giữa bên làm dịch vụ với bên thuê dịch vụ mà không có sự tham gia của bên trung gian.
Trong hoạt động dịch vụ trung gian thương mại, bên trung gian có vai trò làm cầu nối giữa bên thuê dịch vụ và bên thứ ba. Bên trung gian thực hiện việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại với bên thứ ba không vì lợi ích của bản thân mình mà vì lợi ích của bên thuê dịch vụ (bên uỷ nhiệm). Tuy nhiên, bên trung gian (bên được uỷ nhiệm) sẽ được hưởng thù lao khi hoàn thành nhiệm vụ mà bên uỷ nhiệm giao phó. Do đó, mục đích của bên trung gian trong các hoạt động trung gian thương mại là nhằm tới thù lao mà bên thuê dịch vụ sẽ trả cho họ chứ không mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ nhằm lợi ích của bản thân họ.
Thứ hai, trong hoạt động dịch vụ trung gian thương mại, bên trung gian thương nhân, có tư cách pháp lí độc lập với bên thuê dịch vụ và bên thứ ba.
Để thực hiện hoạt động dịch vụ trung gian thương mại, bên trung gian phải có những điều kiện nhất định để có thể được bên thuê dịch vụ tin tưởng uỷ nhiệm thực hiện công việc vì lợi ích của họ. Điều 6 Luật thương mại năm 2005 quy định bên trung gian phải là thương nhân. Theo điều này, thương nhân phải là tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập thường xuyên và có đăng kí kinh doanh. Đối với một số dịch vụ trung gian thương mại như: Dịch vụ uỷ thác mua bán hàng hoá, dịch vụ đại lí thương mại, ngoài điều kiện là thương nhân, bên trung gian còn phải có điều kiện khác như phải là thương nhân kinh doanh mặt hàng phù hợp với hàng hoá được uỷ thác thì mới trở thành bên nhận uỷ thác mua bán hàng hoá.
Trong quan hệ với bên thuê dịch vụ (bên uỷ nhiệm) và bên thứ ba, người trung gian thực hiện các hoạt động thương mại với tư cách pháp lí hoàn toàn độc lập và tự do. Người trung gian là những thương nhân độc lập, hành nghề cung ứng dịch vụ trung gian thương mại một cách chuyên nghiệp chứ không phải là người làm công ăn lương. Điều này thể hiện qua việc người trung gian có trụ sở riêng, có tư cách pháp lí độc lập, tự định đoạt thời gian làm việc, tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình. Đặc điểm này, giúp chúng ta phân biệt người trung gian trong hoạt động thương mại với các chi nhánh, văn phòng đại diện do thương nhânlập ra để thực hiện hoạt động kinh doanh của thương nhân và những người lao động làm thuê cho thương nhân cũng như những người có chức năng đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp như: Giám đốc doanh nghiệp, thành viên hợp danh của công ti hợp danh. Các chủ thể nói trên không có tư cách pháp lí độc lập và chỉ được thực hiện các hoạt động trong phạm vi, quyền hạn theo quy định trong nội bộ của thương nhân đó.
Thứ ba, hoạt động dịch vụ trung gian thương mại song song tồn tại hai quan hệ: Quan hệ giữa bên uỷ nhiệm và bên được uỷ nhiệm; quan hệ giữa bên được uỷ nhiệm (hoặc bên uỷ nhiệm) và bên thứ ba. Các quan hệ này phát sinh trên cơ sở hợp đồng.
Theo cách hiểu của chúng tôi về hoạt động trung gian thương mại được trình bày ở phần trên thì để thực hiện các hoạt động trung gian thương mại, trước tiên bên có nhu cầu sử dụng dịch vụ của người trung gian (bên uỷ nhiệm) và bên cung ứng dịch vụ trung gian (bên được uỷ nhiệm) phải thiết lập được quan hệ với nhau. Bên uỷ nhiệm và bên được uỷ nhiệm thoả thuận nội dung công việc mà bên được uỷ nhiệm thực hiện thay mặt bên uỷ nhiệm giao dịch với bên thứ ba cũng như quyền và nghĩa vụ của hai bên đối với nhau. Bởi vậy, có thể thấy trong hoạt động trung gian thương mại, quan hệ giữa bên uỷ nhiệm và bên được uỷ nhiệm thường có mối quan hệ gắn bó, chặt chẽ và phát sinh trên cơ sở hợp đồng. Đó là các hợp đồng đại diện cho thương nhân, hợp đồng môi giới, hợp đồng uỷ thác mua bán hàng hoá và hợp đồng đại lí. Các hợp đồng này đều có tính chất là hợp đồng song vụ, ưng thuận và có tính đền bù. Hình thức của các hợp đồng này bắt buộc phải được thể hiện bằng văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị pháp lí tương đương với văn bản, bao gồm: Điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu (là thông tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử) và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
Hoạt động trung gian thương mại sẽ không thể thực hiện được nếu như chỉ tồn tại quan hệ giữa bên uỷ nhiệm và bên được uỷ nhiệm. Để thực hiện hoạt động này, bên được uỷ nhiệm phải giao dịch với bên thứ ba để hoàn thành yêu cầu mà bên uỷ nhiệm giao cho. Khi giao dịch với bên thứ ba, tư cách và vai trò của người trung gian không luôn giống nhau. Họ có thể và nhân danh bên uỷ nhiệm (như bên đại diện) để giao dịch với bên thứ ba trong hoạt động đại diện cho thương nhân hoặc họ chỉ thay mặt bên uỷ nhiệm nhưng lại nhân danh chính mình để quan hệ với bên thứ ba (như bên nhận uỷ thác, bên đại lí) trong hoạt động uỷ thác mua bán hàng hoá, hoạt động đại lí thương mại hoặc chỉ nhận sự uỷ nhiệm của bên thuê dịch vụ để tìm kiếm bên thứ ba và giúp bên thuê dịch vụ, bên thứ ba tiếp xúc với nhau. Bởi vậy, trong hoạt động trung gian thương mại, bên thứ ba sẽ có quan hệ pháp lí với bên uỷ nhiệm (đối với hoạt động đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại) hoặc trực tiếp quan hệ với bên được uỷ nhiệm như trong hoạt động uỷ thác mua bán hàng hoá.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Giáo trính luật thương mại Việt Nam
2. Khái niệm, bản chất pháp lý của hoạt động trung gian thương mại – Tạp chí luật học số 1 năm 2006
Để lại một phản hồi Hủy