Hành nghề luật sư, cũng như các nghề luật khác, bên cạnh kiến thức, kỹ năng và phẩm chất đạo đức, cần nhận thức đúng đắn về chức phận nghề nghiệp, được đặt trong sự vận hành thống nhất của các thể chế tư pháp, tố tụng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, môi trường pháp lý và các yếu tố tác động khác đến hoạt động hành nghề luật sư ở Việt Nam. Sau khi trải qua quá trình đào tạo đạt trình độ cử nhân luật và đào tạo nghề luật sư, tập sự trong một Tổ chức hành nghề luật sư, tham dự kỳ kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư do Liên đoàn luật sư Việt Nam (Liên đoàn Luật sư Việt Nam) tổ chức, được cấp chứng chỉ hành nghề và Thẻ luật sư, một người có thể đủ điều kiện về tư cách, chính thức trở thành luật sư hoạt động chuyên nghiệp. Tuy nhiên, đó mới chỉ là điều kiện “cần” mà chưa “đủ”.
Để có thể tham gia vào các phạm vi cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng, từng bước xây dựng uy tín, hình ảnh, thương hiệu cá nhân của mỗi luật sư hay tổ chức hành nghề, điều quan trọng là cần hiểu biết sâu sắc về những đặc điểm và sự khác biệt trong hoạt động hành nghề luật sư ở Việt Nam trong mối tương quan về nghề luật sư ở một số nước phát triển. Với tư cách là chủ thể thực hiện chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự là chức năng bào chữa, tư vấn hỗ trợ cho các chủ thể xã hội, mỗi luật sư đều cần nắm vững và thấm nhuần chức năng xã hội cao quý, các nguyên tắc, phạm vi và phương thức hành nghề luật sư để trang bị cho mình nhận thức cơ bản, làm hành trang trong quá trình hành nghề.
Nguyên tắc hành nghề luật sư ở Việt Nam
Như bất cứ ngành nghề nào hoạt động theo sự phân công của xã hội, hành nghề luật sư cũng phải dựa trên các nguyên tắc căn bản là nền tảng chuẩn mực trong ứng xử nghề nghiệp của luật sư. Nguyên tắc hành nghề luật sư được quy định tại Điều 5 Luật Luật sư năm 2006, bao gồm:
Nguyên tắc thứ nhất: Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật
Trước hết, khi nói đến tố chất của luật sư, tổng quan chung có thể khẳng định luật sư là người hội tụ những phẩm chất cao quý, xuất phát từ sự tận hiến, hoạt động nghề nghiệp mang tính chất phục vụ. Người dân và xã hội luôn đòi hỏi ở luật sư những chuẩn mực và tiêu chí rất cao, từ quan niệm cuộc sống, lý tưởng nghề nghiệp, phẩm chất và kỹ năng nghề nghiệp. Điều đó không phải tự nhiên mà có được, đó là sự trải nghiệm, tích lũy những được – mất của cuộc đời, gắn rất chặt với hoàn cảnh, điểm xuất phát vào nghề của mỗi người và quyết định đến việc thành bại của nghề luật sư trong tương lai. Tuy nhiên, là người có kiến thức pháp luật, được đào tạo và bồi dưỡng nghề nghiệp nhằm tích lũy, nâng cao sự hiểu biết, luật sư vừa là chủ thể sử dụng, hướng dẫn, sáng tạo và góp phần hoàn thiện pháp luật, nên hơn ai hết phải là người có trách nhiệm tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
Pháp luật – với tư cách là đối tượng áp dụng của các chủ thể tư pháp vẫn tồn tại một số bất cập, đôi khi chưa theo kịp với tốc độ phát triển sôi động của xã hội hiện nay. Để tư vấn, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng, luật sư có nhiệm vụ tìm kiếm và đề xuất các giải pháp pháp lý cho việc thực hiện thống nhất pháp luật, chỉ ra tính thiếu căn cứ của việc quy buộc hành vi bị coi là tội phạm hoặc cần hiểu đúng về tinh thần của điều luật được áp dụng. Trách nhiệm tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của luật sư trong hành nghề còn là sự phân định và chế ước hài hòa giữa hai yêu cầu tưởng chừng mâu thuẫn nhau là vừa bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, vừa phải tôn trọng sự thật và bảo vệ tính hiệu lực của pháp luật. Sự thống nhất các quyền lợi khác nhau trong một trật tự pháp luật chỉ có thể có được khi luật sư nhận thức được ý nghĩa đặc biệt quan trọng về sứ mệnh trợ tá công lý của hoạt động nghề nghiệp, mang đến các giá trị công bằng và dân chủ cho các tiến trình tố tụng.
Cùng với các chủ thể tư pháp độc lập khác, trong quá trình hành nghề, luật sư là người phát hiện ra sự bất cập của các quy định pháp luật, chỉ ra được sự mâu thuẫn của các quan niệm áp dụng pháp luật. Do quan niệm và cách vận dụng pháp luật còn ít nhiều cứng nhắc của một số Thẩm phán, tại các phiên tòa, thường các luật sư là người chủ động phát hiện những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng, tính không có căn cứ của việc áp dụng điều luật. Sự phát hiện này là tiền đề của hoạt động sáng tạo pháp luật. Luật sư là người có khả năng độc lập trong việc tìm kiếm, tổng hợp, đánh giá các căn cứ pháp lý áp dụng trong thực tiễn xét xử. Hồ sơ vụ án thường phản ánh rất ít các tài liệu liên quan đến pháp luật làm cơ sở đối chứng với hành vi vi phạm của bị can, bị cáo (ví dụ, trong vụ án liên quan đến việc quy buộc hành vi thiếu trách nhiệm, cố ý làm trái pháp luật, một số vụ án không thu thập các hồ sơ pháp lý về pháp nhân, các quyết định bổ nhiệm, quy chế hoặc sự phân công trách nhiệm của từng thành viên lãnh đạo…). Thông qua hoạt động này, luật sư đã phát hiện nguyên nhân của hành vi sai phạm một phần do sự bất cập của pháp luật và từ chính quy định của pháp luật.
Ví dụ 1: Trong vụ án A mua cổ phần của M, thông qua phiên tòa, luật sư phát hiện một trong những nguyên nhân nảy sinh vụ án là nhận thức áp dụng không đúng giữa Luật Đầu tư năm 2014 (Luật 67) và Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014 (Luật 69), dẫn đến hiểu sai về thẩm quyền phê duyệt chủ trương đầu tư của Chính phủ hay Bộ Thông tin và truyền thông.
Ví dụ 2: Trong một vụ án buôn lậu lớn liên quan đến hoạt động kiểm hóa của Hải quan do TAND Thành phố Hồ Chí Minh xét xử năm 2003, luật sư là người phát hiện hệ thống 22 văn bản pháp quy về “kiểm hóa đối với hàng chuyển tiếp” có rất nhiều sơ hở, trong đó có quy định về kiểm đại diện và kiểm hóa ban đêm, là cơ hội cho việc một số nhân viên hải quan nhận tiền của khách hàng một cách công khai. Từ sự phát hiện này, luật sư không chỉ giúp Tòa án làm sáng tỏ nguyên nhân phạm tội, mà còn giúp Tổng cục Hải quan kịp thời hủy bỏ ngay 22 văn bản pháp quy nói trên.
Qua thực tiễn xét xử, luật sư còn góp phần phát hiện những quy định pháp luật bất cập, kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật. Ngay từ thời điểm đầu những năm 90 của thế kỷ trước, trong vụ án Minh Phụng – Epco, các luật sư đã đấu tranh rất kiên quyết về những bất hợp lý trong việc định giá tài sản bảo đảm cho việc cấn trừ công nợ của Ngân hàng. Trong vụ án P.V.A.V liên quan các cán bộ ngành Công an được xét xử vào năm 2019, các luật sư cũng đấu tranh để bảo đảm việc giám định thiệt hại phải căn cứ vào thời điểm xảy ra hành vi sai phạm chứ không phải thời điểm khởi tố vụ án.
Nguyên tắc thứ hai: hành nghề luật sư phải tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam.
Nguyên tắc này xuất phát từ quan niệm coi nghề luật sư là một nghề có truyền thống cao quý, gắn liền với số phận pháp lý của con người. Thông qua hoạt động của mình, luật sư thực hiện chức năng xã hội cao cả đã nêu ở trên. Cũng như sông có nguồn, cây có gốc, nhà có nền, đạo đức nghề nghiệp có ý nghĩa là nguồn, là gốc, là nền tảng cơ bản của nghề luật sư. Không có đạo đức nghề nghiệp, nghề luật sư không thể tồn tại, phát triển. Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân và tự chịu trách nhiệm cá nhân về uy tín nghề nghiệp của mình, với mục tiêu phụng sự công lý, tôn trọng và dựa trên pháp luật thì trước hết phải xuất phát từ một nền tảng đạo đức. Nếu không xuất phát từ nền tảng này thì luật sư khó có thể có ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp luật khi hành nghề.
Quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư có giá trị là các chuẩn mực đạo đức của giới luật sư, tạo cơ sở để luật sư tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức trong sinh hoạt và hành nghề; là thước đo giúp luật sư giữ gìn phẩm chất, uy tín của bản thân; từ đó khiêm tốn học hỏi, tích lũy kinh nghiệm và kỹ năng hành nghề, góp phần nâng cao uy tín nghề nghiệp của giới luật sư trong xã hội. Đây cũng chính là một văn bản mang tính quy phạm nội bộ thể hiện rõ nét nhất cơ chế quản lý theo phương thức “tự quản kết hợp với quản lý nhà nước”. Ngay sau khi Liên đoàn Luật sư Việt Nam được thành lập, một trong những nhiệm vụ quan trọng được triển khai thực hiện là soạn thảo và trình Hội đồng luật sư toàn quốc ban hành Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư vào năm 2011 (được ban hành mới năm 2019). Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư là những quy tắc xử sự được thể hiện dưới hình thức văn bản chứa đựng những quy phạm đạo đức và ứng xử nghề nghiệp do Hội đồng luật sư toàn quốc ban hành để điều chỉnh hành vi của các thành viên Liên đoàn Luật sư Việt Nam trong quan hệ với các chủ thể có liên quan khi hoạt động nghề nghiệp và trong giao tiếp xã hội.
Trong đời sống thường nhật, luật sư tham gia vào các quan hệ xã hội, các quan hệ nghề nghiệp, cung cấp các dịch vụ pháp lý cho khách hàng theo phạm vi pháp luật quy định, trong đó có các quan hệ tố tụng trong các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, thương mại, lao động, hành chính… Trong các quan hệ tố tụng nêu trên lại diễn ra nhiều loại quan hệ giữa các chủ thể khác như: Quan hệ giữa luật sư với các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng qua các giai đoạn tố tụng (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự); quan hệ với khách hàng, với những người tham gia tố tụng khác, quan hệ với đồng nghiệp… Với tư cách một chủ thể tham gia trong các quan hệ tố tụng, luật sư có những quyền và nghĩa vụ tố tụng nhất định theo quy định của pháp luật, bắt buộc phải tuân thủ và nếu vi phạm sẽ phải chịu các hình thức xử lý theo các chế tài đã được luật hóa.
Tuy nhiên, trong các quan hệ nêu trên, vẫn có những trường hợp, tình huống nảy sinh trong thực tiễn giao tiếp không nằm trong phạm vi điều chỉnh của pháp luật mà thuộc phạm trù đạo đức và ứng xử nghề nghiệp phải được điều chỉnh bằng các quy phạm đạo đức tương ứng. Đó là các quy định về căn cứ, chuẩn mực trong hành vi đã được xác định trong Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư. Các quy định này cũng hàm chứa các nghĩa vụ đạo đức mang tính chất ngăn cấm, bắt buộc luật sư phải tuân thủ hoặc các quy phạm mang tính chất khuyến khích luật sư áp dụng trong quá trình hành nghề cũng như trong lối sống, giao tiếp xã hội. Đạo đức nghề nghiệp luật sư chính là tổng hợp chuẩn mực ứng xử của luật sư trong các mối quan hệ với các chủ thể có liên quan của hoạt động nghề nghiệp và các mối quan hệ xã hội khác.
Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư có những quy tắc chung mang tính chất là những nghĩa vụ đạo đức cơ bản của luật sư và các quy tắc cụ thể điều chỉnh hành vi của luật sư khi tham gia các nhóm quan hệ xã hội trong hành nghề. Các quy tắc đó được phân biệt:
– Các quy tắc chung trong hành nghề luật sư: Các chuẩn mực này liên quan đến chức năng xã hội của luật sư, với sứ mệnh cao cả là bảo vệ công lý, phát triển kinh tế, góp phần xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; tuân thủ và trung thành với Hiến pháp, pháp luật; độc lập, ngay thẳng, tôn trọng sự thật và góp phần vào việc phát triển hệ thống pháp luật, tích cực tham gia các hoạt động công ích.
– Các chuẩn mực đạo đức trong quan hệ với khách hàng: Đây là các chuẩn mực ứng xử quan trọng nhất trong Bộ Quy tắc. Bởi vì mối quan hệ với khách hàng chính là “lửa thử vàng” đối với cá nhân luật sư. Uy tín, lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp luật sư, sự tiêu cực/hay không tiêu cực của luật sư đều xuất phát từ nền tảng quan hệ này và tác dụng của nó có ý nghĩa chi phối các hành vi ứng xử khác trong “tổng hòa các quan hệ xã hội” của luật sư. Các tiêu chuẩn này liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của luật sư đối với khách hàng, bao gồm việc tận tâm thực hiện hết khả năng và trách nhiệm với khách hàng trong khuôn khổ pháp luật cho phép và phạm trù đạo đức nghề nghiệp; tuân thủ bí mật quốc gia và bí mật của khách hàng; ngăn ngừa các thủ đoạn hành nghề không lương thiện, tự giác thực hiện các nghĩa vụ trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo, giải quyết các mâu thuẫn về lợi ích, việc nhận thù lao, v.v..
– Các chuẩn mực đạo đức của luật sư trong mối quan hệ với đồng nghiệp: Pháp luật về luật sư có rất ít quy phạm điều chỉnh mối quan hệ này. Bởi vì quan hệ đồng nghiệp là thái độ ứng xử giữa luật sư với nhau trong giới luật sư. Chuẩn mực này đòi hỏi mỗi luật sư phải coi uy tín của đồng nghiệp và uy tín của giới là uy tín của chính mình. Điều mình không muốn thì không được làm với đồng nghiệp. – Các chuẩn mực đạo đức trong quan hệ với các Cơ quan tiến hành tố tụng và các CQNN, các tổ chức xã hội, cơ quan truyền thông…: Mặc dù pháp luật đã có các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ của luật sư với người tham gia tố tụng hoặc chủ thể khác tương ứng nhưng vẫn cần phải có quy tắc đạo đức điều chỉnh, quan hệ này để bổ trợ cho thái độ ứng xử của cá nhân luật sư.
– Các chuẩn mực về kỷ luật nghề nghiệp luật sư: Đây là những điều cấm (không được làm) đối với luật sư khi hành nghề. Luật sư sẽ phải chịu các chế tài kỷ luật đối với các hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp luật sư. Áp dụng các biện pháp chế tài này đòi hỏi phải quy phạm hóa các tiêu chuẩn kỷ luật – thuộc chức năng tự quản nghề nghiệp của Liên đoàn Luật sư Việt Nam theo Điều lệ, làm căn cứ cho việc xử lý kỷ luật đối với từng cá nhân luật sư.
Nguyên tắc thứ ba: luật sư khi hành nghề phải tuân thủ nguyên tắc độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan.
Quan niệm về tính độc lập trong hành nghề luật sư hiện nay đang còn nhiều ý kiến khác nhau, một phần xuất phát trong pháp luật thực định, luật sư chỉ là người tham gia tố tụng và phạm vi hoạt động luật sư thuộc lĩnh vực bổ trợ tư pháp, nên thực chất luật sư chỉ được coi là người trợ giúp pháp lý mang tính bị động, không có cơ sở pháp lý cho việc hành nghề một cách bình đẳng và độc lập. Mặt khác, trong pháp luật tố tụng, vị thế của bị can, bị cáo không bình đẳng với những người tiến hành tố tụng, nên đến lượt mình, quyền năng của luật sư là quyền năng phái sinh, phụ thuộc hoàn toàn vào sự chấp thuận hay không chấp thuận của những người tiến hành tố tụng.
Về mặt xã hội, do chưa được thừa nhận là một chức danh tư pháp độc lập nên vai trò của luật sư trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, trong cải cách tư pháp còn bị hạn chế. Thực tiễn những năm qua cho thấy, địa vị pháp lý của luật sư chưa được xác định một cách rõ ràng, cũng như chưa làm rõ ranh giới giữa phạm vi hành nghề dịch vụ pháp lý cho xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, bảo vệ công bằng và chính nghĩa, với phục vụ cho lợi ích chung của xã hội.
Trong khi đó, xét về bản chất thì chức năng bào chữa tồn tại độc lập và đối trọng với chức năng công tố như một tất yếu khách quan tự thân của tố tụng hình sự. Việc coi hoạt động luật sư thuộc khuôn khổ của các hoạt động “bổ trợ tư pháp” thực chất chỉ giới hạn trong hoạt động tranh tụng, vô hình trung đã giảm nhẹ ý nghĩa và các giá trị xã hội mà hoạt động này mang lại cho sự phát triển của dân chủ nói chung và hoạt động tư pháp nói riêng. Thực tế cho thấy khi giải quyết tranh chấp giữa công dân với CQNN trong tố tụng hình sự, hầu hết các nước trên thế giới đều thành lập ba chế định: Công tố làm nhiệm vụ buộc tội, Tòa án thực hành thiên chức trọng tài của mình một cách công bằng thông qua chức năng xét xử và luật sư độc lập với cơ quan buộc tội và cơ quan xét xử. Tính chất độc lập này không chỉ giới hạn trong phạm vi tranh tụng tại phiên tòa, mà còn mở rộng đến các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ở Nhật Bản, chỉ đến những năm gần đây, trong nhận thức của những nhà làm luật mới bắt đầu có những thay đổi thật sự khi xác định luật sư là một chức danh tư pháp và chế định về luật sư được coi là một trong ba chiếc cánh nâng đỡ nền tư pháp Nhật Bản[1].
Trong điều kiện phát triển của xã hội nước ta hiện nay và yêu cầu của chiến lược cải cách tư pháp, luật sư đã bước đầu được nhìn nhận có vai trò quan trọng trong quá trình tranh tụng và tư vấn pháp luật, là những người hành nghề chuyên nghiệp về pháp luật. Theo các quy định của Luật Luật sư, họ được đào tạo nghề nghiệp, phải qua thời gian tập sự và kỳ thi quốc gia kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư mới được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, gia nhập Đoàn luật sư và Liên đoàn Luật sư Việt Nam cấp Thẻ luật sư. Trong xã hội, họ có sứ mạng bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm việc thực thi pháp luật được đúng đắn, bảo vệ công bằng và chính nghĩa. Có thể khẳng định, giá trị của hoạt động nghề nghiệp luật sư tương đồng với những người làm công tác giám sát và thực thi pháp luật khác. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị khi chỉ đạo đề án xây dựng Học viện Tư pháp đã đề cập đến một trong những chức danh tư pháp cần đào tạo là luật sư, đồng thời “mở rộng nguồn để bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp, không chỉ là cán bộ trong các cơ quan tư pháp, mà còn là các luật gia, luật sư”. Do đó, có thể khẳng định luật sư là một chức danh tư pháp độc lập, chỉ những người có đủ điều kiện hành nghề chuyên nghiệp theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện việc tư vấn pháp luật, đại diện theo ủy quyền, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân, tổ chức và nhà nước, trước Tòa án và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác.
Khi xác định tính độc lập là một thuộc tính thuộc về bản chất và là nguyên tắc hành nghề luật sư, cần hiểu đây là quan niệm mang ý nghĩa tương đối. Có một số người đồng nhất tính độc lập với tính chất hành nghề tự do của luật sư, không chịu sự ràng buộc, can thiệp hoặc giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước, cũng như chế độ tự quản, tự giám sát của tổ chức hành nghề, tổ chức xã hội – nghề nghiệp luật sư. Thật ra, tính độc lập của hoạt động luật sư xuất phát trước hết bởi sự tín nhiệm, ủy thác của cá nhân, tổ chức và sự tín nhiệm hay ủy thác đó phải dựa trên cơ sở thỏa thuận tự nguyện. Trên bình diện này, hoạt động của luật sư tự bản thân đã khác biệt với hoạt động của các cơ quan công quyền, hành chính nhà nước hay Cơ quan tiến hành tố tụng. Ở đây, có mối liên hệ giữa tính dân chủ và tính độc lập của hoạt động luật sư, bởi đòi hỏi dân chủ và công bằng trong hoạt động của luật sư có nghĩa là luật sư phải có vị thế độc lập, làm cho khách hàng tin tưởng, tín nhiệm vào chức danh nghề nghiệp của luật sư.
Vấn đề phức tạp về mặt lý luận là ở chỗ, về bản chất thì nguyên tắc tuân thủ pháp luật của hoạt động luật sư đã đồng nhất mục tiêu hoạt động nghề nghiệp với thể chế chính trị – xã hội, gắn với quá trình hưng suy của dân tộc, nhưng luật sư lại được độc lập trong hành nghề. Nói tới tính độc lập của hoạt động luật sư là nhằm làm sáng tỏ hơn về phương thức hoạt động đối trọng với các chủ thể tư pháp khác trong một chỉnh thể thống nhất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cho thấy rõ thêm cơ sở lý luận của việc xác định khái niệm luật sư là một chức danh tư pháp độc lập. Tính độc lập của hoạt động luật sư là điều kiện tất yếu cho hành nghề luật sư và sự tự quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp luật sư là biểu hiện rõ nét nhất của tính độc lập này.
Trong cơ chế hoạt động tố tụng, luật sư đóng vai trò là người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các chủ thể xã hội – công dân nên điểm xuất phát và quan điểm giải quyết của luật sư thường không đồng nhất hoàn toàn với các Cơ quan tiến hành tố tụng. Nếu đưa hoạt động luật sư và các Cơ quan tiến hành tố tụng vào chung một thể chế quản lý sẽ tạo ra sự hoài nghi của một bộ phận nhân dân, làm cho hoạt động luật sư mất đi tính mục tiêu hoặc bị xuyên tạc. Quan niệm tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư biểu hiện rõ nét tính độc lập trong hoạt động của luật sư là nói đến sự tự quản về mặt tổ chức và hoạt động, tính chịu trách nhiệm cá nhân của từng luật sư trong hành nghề.
Pháp luật về luật sư thừa nhận nguyên tắc độc lập của hoạt động luật sư trên nền tảng tự do hành nghề và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, nhưng tính độc lập của hoạt động luật sư không đồng nghĩa với cô lập, tự tách mình ra, mà nó hòa quyện trong trật tự pháp chế thống nhất, với các thuộc tính tuân thủ pháp luật và dân chủ. Thừa nhận nguyên tắc độc lập của hoạt động luật sư sẽ có lợi cho sự phát triển của đội ngũ luật sư Việt Nam hiện nay trong điều kiện phát triển của đất nước chủ động hội nhập quốc tế, mở rộng giao lưu, hợp tác về luật pháp trên cơ sở bảo đảm đời sống tự chủ và chủ quyền quốc gia, tạo ra sức cạnh tranh và phát triển của hoạt động luật sư một cách lành mạnh.
Khi bảo đảm nguyên tắc độc lập trong hành nghề, luật sư phải trung thực, tôn trọng sự thật khách quan, không phải xuôi chiều phục vụ khách hàng bằng mọi giá, không được xúi giục khách hàng tố cáo, khiếu nại, cung cấp tài liệu, chứng cứ sai sự thật. Thực tế, tâm trạng phổ biến của các bị cáo hoặc đương sự có sự lo ngại cố hữu do hạn chế về nhận thức pháp luật, nên cách ứng xử tại phiên tòa trong một số trường hợp thường né tránh, quanh co trong khai báo, thậm chí hiểu sai tinh thần của một điều luật. Mặt khác, có một số trường hợp lại tìm cách “lách luật”, dẫn dắt luật sư theo các yêu cầu trái với pháp luật và đạo đức nghề nghiệp. Trách nhiệm hướng dẫn pháp luật, trung thực và tôn trọng sự thật khách quan đòi hỏi các luật sư ngoài sự tinh thông về pháp luật, còn phải có sự hiểu biết sâu về tâm lý và kinh nghiệm đời sống xã hội, nhận biết được bản chất vụ án và tư cách của khách hàng, giúp cho họ hiểu và vận dụng pháp luật một cách đúng đắn.
Nguyên tắc thứ tư: Khi hành nghề, luật sư có trách nhiệm phải sử dụng các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng.
Đây là nguyên tắc quan trọng, thể hiện vai trò, trách nhiệm và tâm thế của luật sư trong quá trình cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Trong thực tiễn hành nghề, xuất phát từ nhu cầu của khách hàng rất đa dạng, nên việc nhận diện đúng nhu cầu, căn cứ khả năng chuyên môn và kỹ năng chuyên sâu của mình để xem xét, thảo luận có đảm nhận được vụ việc hay không. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, một phần áp lực của nghề nghiệp và cuộc sống, một số luật sư sẵn sàng nhận vụ việc của khách hàng vượt quá khả năng chuyên môn của mình. Có nhiều trường hợp, luật sư khiến cho khách hàng lầm tưởng về khả năng xử lý, giải quyết công việc, thậm chí “quảng bá” về khả năng quan hệ với các cơ quan, người tiến hành tố tụng, người có chức vụ, quyền hạn để tạo sự tin cậy của khách hàng hoặc hưởng phí thù lao cao hơn…
Trong quá trình cung cấp dịch vụ cho khách hàng, luật sư không nên hiểu dịch vụ như là “sự đổi trao, mua bán” thứ hàng hóa là “kiến thức – kỹ năng pháp luật”, vì nó sẽ hạ thấp vai trò của luật sư trong việc thúc đẩy sự phát triển dân chủ trong hoạt động tư pháp và xã hội nói chung. Tuy nhiên, tính chất dịch vụ của nghề luật sư là một loại dịch vụ đặc biệt, khác với quan niệm về dịch vụ thông thường như dịch vụ thương mại, thông qua hình thức pháp lý là hợp đồng dịch vụ. Hiện nay, thương mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ được đưa vào hệ thống thương mại thế giới, được điều chỉnh bởi Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) trong khuôn khổ của Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Theo định nghĩa của GAST, khái niệm dịch vụ pháp lý theo nghĩa rộng gồm dịch vụ tư vấn pháp luật (advisory services), dịch vụ đại diện (representation services) và tất cả các hoạt động liên quan đến tư pháp như xét xử, công tố, bào chữa công, v.v.. Trong Bảng phân loại các lĩnh vực dịch vụ của WTO, “dịch vụ pháp lý” là một phân ngành “dịch vụ nghề nghiệp” (professional services) thuộc lĩnh vực “dịch vụ kinh doanh” (bussiness services). Theo Danh mục phân loại tạm thời các lĩnh vực dịch vụ (PCPC) của Liên hợp quốc kèm theo mã số cho từng lĩnh vực và phân ngành dịch vụ cụ thể thì dịch vụ pháp lý có mã số 861 và được phân chia thành nhiều tiểu phân ngành như:
a) Dịch vụ tư vấn và đại diện liên quan đến pháp luật hình sự (PCPC 86111);
b) Dịch vụ tư vấn và đại diện trong tố tụng tư pháp liên quan đến các lĩnh vực khác của pháp luật (PCPC 86119);
c) Dịch vụ tư vấn và đại diện trong các thủ tục hành chính, trọng tài (PCPC 86120);
d) Dịch vụ tập hợp và chứng nhận các giấy tờ pháp lý (PCPC 86130);
e) Các dịch vụ pháp lý khác (PCPC 86190)…
Việt Nam đã tham gia ký Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS) vào ngày 15/12/1995 tại Bangkok (Thái Lan), trong đó mở rộng mức độ tự do hóa thương mại dịch vụ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu ra ngoài khuôn khổ những cam kết của GATS. Tại vòng đàm phán đầu tiên về hợp tác dịch vụ vào tháng 01/1996, Việt Nam đã đưa ra cam kết về dịch vụ tư vấn pháp luật và các cam kết này về cơ bản dựa vào các quy định của pháp luật hiện hành trong lĩnh vực này.[2]
Vì vậy, khi coi nghề luật sư mang tính chất dịch vụ, có nghĩa là nói đến khía cạnh là dịch vụ pháp lý hiểu theo nghĩa ở trên. Vì là dịch vụ nên Luật Luật sư năm 2006 quy định “khách hàng phải trả thù lao khi sử dụng dịch vụ pháp lý của luật sư”, đồng thời quy định rõ căn cứ và phương pháp tính thù lao. Đặc điểm dịch vụ của nghề luật sư rõ nét hơn trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, trong đó luật sư có vai trò là người trợ giúp pháp lý cho các chủ thể kinh tế tham gia các quan hệ kinh tế, góp phần bảo vệ trật tự kinh tế thị trường, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh tế, tạo môi trường pháp lý an toàn cho các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Câu hỏi đặt ra: Thế nào là “biện pháp hợp pháp” mà luật sư sử dụng để bảo vệ tốt nhất quyền lợi của khách hàng? Đây là một câu hỏi khó, bởi lẽ mỗi luật sư xuất phát từ tố chất nội lực, kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm riêng có của mỗi người sẽ tự nhận diện và đánh giá về khả năng cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng. Trong một số trường hợp, do vượt quá khả năng của bản thân, luật sư có thể chiều theo ý khách hàng, sử dụng các biện pháp trái pháp luật để đạt được yêu cầu của mình. Những biện pháp trái pháp luật có thể và không giới hạn, bao gồm hành vi “trung gian” chạy án, cung cấp tài liệu chứng cứ bị coi là giả mạo, xúi bẩy khách hàng trốn tránh lệnh triệu tập của Cơ quan tiến hành tố tụng hoặc khai báo gian dối, tìm cách trì hoãn phiên tòa, gây khó khăn cho hoạt động bình thường của các Cơ quan tiến hành tố tụng, CQNN có thẩm quyền… Do đó, cần hiểu biện pháp hợp pháp là cách thức, kỹ năng và ứng xử của mỗi luật sư khi hành nghề phải tuân thủ các quy định của pháp luật và đạo đức, biết phân biệt đâu là giới hạn trách nhiệm của luật sư trong quá trình cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng.
Nguyên tắc thứ năm: Luật sư phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động nghề nghiệp luật sư, trong đó đối tượng phục vụ chính yếu là khách hàng và bảo đảm thực hiện chức năng xã hội cao quý.
Muốn vậy, luật sư phải xây dựng uy tín cá nhân và tổ chức hành nghề của mình trong con mắt của công chúng. Uy tín nghề nghiệp cá nhân là một thuộc tính quan trọng thể hiện bản chất của hoạt động luật sư. Nghiên cứu về bản chất của hoạt động luật sư trong điều kiện phát triển của nền kinh tế thị trường cần đề cập đến khía cạnh dịch vụ và chế độ tín nhiệm đối với cá nhân luật sư. Trong hoạt động nghề nghiệp, luật sư chịu trách nhiệm cá nhân bởi khách hàng thường tín nhiệm yêu cầu đích danh luật sư, chứ không phải tổ chức hành nghề hay tổ chức xã hội – nghề nghiệp luật sư. Mặc dù Tổ chức hành nghề luật sư là nơi tiếp nhận yêu cầu của khách hàng, nhưng khâu cuối cùng vẫn phải phân công cho một luật sư cụ thể. Quyền lựa chọn luật sư cho mình là quyền của khách hàng, không phụ thuộc vào việc chỉ định bắt buộc hay can thiệp của bất cứ cơ quan, cá nhân nào. Luật sư hành nghề bằng lời nói, soạn thảo văn bản tư vấn hay tranh tụng tại phiên tòa đều nhân danh cá nhân. Bản sắc, kinh nghiệm, sự tinh thông nghề nghiệp, uy tín là các tiêu chí phân biệt luật sư này với luật sư khác. Thuộc tính này phân biệt hoạt động của luật sư với hoạt động của các Cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan hành chính tư pháp mang tính chất tập thể, dưới danh nghĩa cơ quan, tổ chức.
Uy tín nghề nghiệp cá nhân của hoạt động luật sư còn nổi trội hơn trong điều kiện cạnh tranh trên thị trường dịch vụ pháp lý. Thành quả lao động trí óc của luật sư mang đậm dấu ấn cá nhân và hàm lượng chất xám được “giao dịch” trên thị trường, trở thành một dạng “thương hiệu”, “nhãn mác” trong điều kiện hội nhập quốc tế và khu vực, là một trong những tiêu chí khẳng định sự phát triển của nghề luật sư trong một quốc gia. Uy tín cá nhân biểu hiện qua giá trị của “nhãn mác” bao hàm cả tố chất nội lực của cá nhân luật sư, sự tác động, ảnh hưởng của nó trong phạm vi xã hội và tố tụng tư pháp, v.v.. Có thể nói, uy tín của cá nhân luật sư là bộ phận cấu thành nên uy tín của tổ chức hành nghề và tổ chức xã hội – nghề nghiệp luật sư; đến lượt mình, uy tín của tổ chức luật sư là biểu hiện trực tiếp giá trị dân chủ của thể chế và tố tụng tư pháp của một quốc gia. Bản chất của hoạt động luật sư dưới chế độ xã hội chủ nghĩa lấy việc phụng sự công lý và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng làm mục đích, thực hiện trên cơ sở pháp luật quyết định tất yếu đến việc bản thân luật sư phải lấy uy tín làm gốc. Uy tín cá nhân của luật sư phải là yêu cầu nội tại chủ yếu của sự phát triển đội ngũ luật sư và xuyên suốt trong toàn bộ quá trình và hoạt động nghề nghiệp.
Để làm tốt chức năng xã hội cao quý đó, bản thân mỗi luật sư, dù hoạt động dưới những phạm vi và hình thức hành nghề như thế nào, đều cần quan tâm đến việc xây dựng uy tín nghề nghiệp cá nhân của luật sư.
Xây dựng chế độ tín nhiệm đối với luật sư là bộ phận cấu thành quan trọng của việc xây dựng chế độ tín nhiệm của xã hội đối với nghề nghiệp luật sư, nâng cao tính tự chịu trách nhiệm trong hoạt động nghề nghiệp. Mỗi luật sư là người bảo vệ cho uy tín cá nhân của chính mình thông qua các hình thức và phạm vi hoạt động nghề nghiệp; mất đi uy tín cá nhân là luật sư mất đi sức cạnh tranh nghề nghiệp, bị động trong hội nhập. Suy rộng ra là mất đi sự tin cậy của xã hội đối với toàn bộ tổ chức luật sư; cơ sở xã hội cho sự tồn tại của nghề nghiệp luật sư không còn nữa. Uy tín cá nhân của luật sư được coi là sinh mạng sống còn của hoạt động luật sư, do đó luật sư cần là nền tảng cho việc thực hiện chức năng xã hội của luật sư, phấn đấu từng bước xây dựng hình ảnh luật sư trong chế độ xã hội nước ta là “vệ sĩ” bảo vệ chính nghĩa, công bằng và dân chủ trong trái tim của công chúng.
Hoạt động hành nghề luật sư ở Việt Nam
Hoạt động hành nghề luật sư được quy định tại Điều 22 Luật Luật sư năm 2006 với các phạm vi hành nghề cụ thể. Theo nguyên tắc hoạt động, luật sư phải tuân thủ pháp luật, điều kiện tiên quyết đầu tiên là phải có Giấy phép hoạt động (được ghi rõ theo từng loại hình tổ chức hành nghề). Ngoài ra, tùy theo lĩnh vực hành nghề, chẳng hạn lĩnh vực sở hữu công nghiệp (sở hữu trí tuệ) mang tính đặc thù nên cần phải có Giấy phép hoạt động riêng; hoặc đối với các Tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài, Giấy phép hoạt động sẽ được ghi rõ các loại hình dịch vụ pháp lý không được phép thực hiện, trong đó có hoạt động trực tiếp tham gia bào chữa hoặc đại diện cho khách hàng trước Tòa án Việt Nam.
Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư
Cùng với nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm, trong cơ chế giải quyết các tranh chấp, bất đồng giữa các chủ thể trong xã hội, Tòa án được coi là có vị trí trung tâm, thực hiện quyền tư pháp, phân định đúng, sai, làm cơ sở cho việc tôn trọng và tuân thủ pháp luật. Ngoài ra, các thiết chế Trọng tài phi chính phủ, cơ chế hòa giải trong thương mại và dân sự đang được vận hành và tổ chức ngày càng đa dạng. Luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự; hoặc với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính, vụ, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật.
Hoạt động tham gia tố tụng/tranh tụng của luật sư luôn gắn liền với hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước; ảnh hưởng trực tiếp đến tự do, tài sản, các quyền nhân thân, thậm chí cả tính mạng của khách hàng. Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử theo quy định tại Điều 26 BLTTHS năm 2015 là một trong những nguyên tắc đã sớm được hiến định, bao gồm quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án. Theo đó, các bên được quyền tranh tụng và hoạt động xét xử của Tòa án là độc lập và công khai, các bên (bên buộc tội và bên gỡ tội trong vụ án hình sự; nguyên đơn, bị đơn trong vụ án phi hình sự) có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu, và tranh luận trước Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật tố tụng. Tòa án đưa ra phán quyết cuối cùng dựa trên kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa. Luật sư tham gia tố tụng để thực hiện nguyên tắc bảo đảm tranh tụng, bào chữa, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng.
Mặc dù chưa có thống kê chính thức, nhưng có thể nói hơn 60% luật sư hoạt động tham gia tố tụng tại Tòa án và Trọng tài, cho thấy lĩnh vực này có ý nghĩa rất quan trọng trong hành nghề luật sư. Nguyên nhân của tình hình này một phần xuất phát từ ước muốn trở thành “hiệp sĩ” trong lòng dân chúng khi lựa chọn con đường trở thành luật sư trong lĩnh vực tố tụng, còn các lĩnh vực kinh doanh – thương mại, dân sự (kể cả các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài) trong điều kiện phát triển của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế thường đòi hỏi kiến thức, kỹ năng chuyên sâu, trình độ ngoại ngữ nên số lượng luật sư tham gia lĩnh vực này thường ít hơn. Ở Việt Nam, do chưa hình thành chế định luật sư chuyên ngành, nên có tình hình chung là nhiều luật sư và tổ chức hành nghề cung cấp dịch vụ pháp lý cho tất cả các phạm vi hành nghề theo quy định của pháp luật; đồng thời hiện nay có nhiều Tổ chức hành nghề luật sư đã tích lũy và xây dựng được thương hiệu quốc tế trong lĩnh vực tư vấn.
Theo thông lệ quốc tế, hoạt động tham gia tố tụng chỉ dành cho luật sư nước sở tại theo chủ quyền quốc gia cũng như phạm vi mở cửa thị trường dịch vụ pháp lý. Ở Việt Nam, theo Nghị quyết số 71/2006/QH11 ngày 29/11/2006 của Quốc hội phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và theo Luật Luật sư, hoạt động tham gia tố tụng của luật sư không thuộc phạm vi hoạt động của luật sư nước ngoài. Cụ thể, luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam chỉ được tư vấn pháp luật nước ngoài và pháp luật quốc tế; được thực hiện các dịch vụ pháp lý khác liên quan đến pháp luật nước ngoài, được tư vấn pháp luật Việt Nam trong trường hợp có bằng cử nhân luật của Việt Nam và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu tương tự như đối với một luật sư Việt Nam; không được tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trước Tòa án Việt Nam.[3] Do vậy, hoạt động tham gia tố tụng chỉ có thể được thực hiện bởi luật sư Việt Nam (LS có quốc tịch Việt Nam).
Theo khoản 1, 2 Điều 22 Luật Luật sư năm 2006, lĩnh vực tham gia tố tụng của luật sư được phân thành tố tụng hình sự và tố tụng khác (tố tụng phi hình sự):
• Đối với lĩnh vực tố tụng hình sự, theo quy định của BLTTHS năm 2015, luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa cho người bị buộc tội, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự.
• Đối với lĩnh vực tố tụng phi hình sự, theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015, Luật Tố tụng hành chính năm 2015, luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính, vụ, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật.
Do lĩnh vực tham gia tố tụng đòi hỏi những tố chất và năng lượng đặc biệt, cả về tâm thế và vị thế, nên luật sư vừa phải chịu trách nhiệm pháp lý (trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự) và trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp (trách nhiệm kỷ luật với các hình thức xử lý được quy định trong Luật Luật sư, Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư).
Hoạt động tư vấn pháp luật của luật sư
Tư vấn pháp luật là một phạm vi hành nghề trọng yếu của luật sư, nhằm hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp khách hàng soạn thảo các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ. Tư vấn pháp luật là loại hình dịch vụ pháp lý có vai trò quan trọng và phổ biến, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam đang chủ động hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ và sâu rộng. Chính vì vậy, việc trang bị và bồi dưỡng kỹ năng tư vấn pháp luật cho luật sư trở thành một nhu cầu thiết yếu. Hiện nay, kỹ năng tư vấn pháp luật đã được đưa vào thành nội dung bắt buộc của các kỳ kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư của Học viện Tư pháp.
Điều 28 Luật Luật sư năm 2006 quy định về hoạt động tư vấn pháp luật của luật sư. Tư vấn pháp luật là việc luật sư hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp khách hàng soạn thảo các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ. Luật sư thực hiện tư vấn pháp luật trong tất cả các lĩnh vực pháp luật. Khi thực hiện tư vấn pháp luật, luật sư phải giúp khách hàng thực hiện đúng pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Tư vấn pháp luật của luật sư cần phải tuân theo một số yêu cầu nghề nghiệp đặc thù so với hoạt động tư vấn pháp luật của các luật gia hoặc giảng viên luật tại các trường đại học. Chính các yêu cầu nghề nghiệp đặc thù này đã tạo nên sự khác biệt cho hoạt động tư vấn của luật sư như sau:
• Luật sư tư vấn cần phải tìm được giải pháp cụ thể cho vấn đề pháp lý: Khách hàng đến gặp luật sư trong trường hợp có một vấn đề pháp lý cụ thể cần giải quyết. Khi tư vấn cho khách hàng, luật sư cần nêu rõ giải pháp hoặc các công việc cần thiết mà khách hàng nên làm để giải quyết vấn đề pháp lý. Luật sư cần giải đáp các câu hỏi như: (i) Khách hàng có được phép làm hay không; (ii) Nếu có thì khách hàng phải làm như thế nào?; và (iii) Có hậu quả pháp lý gì với khách hàng nếu vi phạm pháp luật liên quan? Ngoài ra, giải pháp tư vấn của luật sư cần phải trung thực và toàn diện để đáp ứng yêu cầu của khách hàng.
• Ý kiến tư vấn của luật sư phải thực tế: Ý kiến tư vấn của luật sư phải có tính khả thi và căn cứ trên điều kiện thực tế của khách hàng. Ngoài ra, luật sư cũng cần giải thích rõ ràng chi phí, lợi ích hoặc biện pháp xử lý rủi ro liên quan đến ý kiến tư vấn để khách hàng có sự lựa chọn phù hợp nhất đối với các giải pháp mà luật sư đưa ra.
• Luật sư tư vấn cần làm việc theo khung thời gian của khách hàng: Khách hàng luôn mong muốn luật sư sẽ làm việc tận tâm, luôn đặt quyền lợi của khách hàng lên trên hết và có trách nhiệm với công việc. Chính vì vậy, luật sư cần có kỹ năng quản lý thời gian, sắp xếp công việc để có thể hỗ trợ khách hàng khi cấp thiết, bảo đảm hoàn thành các công việc trong thời hạn được giao nhằm bảo vệ tốt nhất quyền lợi hợp pháp của khách hàng.
• Luật sư tư vấn cần chú ý về việc giới hạn trách nhiệm pháp lý của mình khi tham gia vào hoạt động tư vấn pháp luật: nghề luật sư là một trong những nghề mà yêu cầu trách nhiệm nghề nghiệp rất cao và vì thế, luật sư tư vấn có thể gặp nhiều rủi ro khi hành nghề. Rủi ro chính mà luật sư gặp phải có thể là bị Đoàn luật sư xử lý kỷ luật, bị các CQNN có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính hoặc phải bồi thường thiệt hại theo trách nhiệm dân sự cho khách hàng. Vì vậy, luật sư cần có những biện pháp, cách thức hợp lý để giới hạn trách nhiệm và bảo vệ mình một cách hợp pháp.1
Theo Điều 35 Luật Luật sư năm 2006, Tổ chức hành nghề luật sư chỉ được thực hiện tư vấn pháp luật cho khách hàng sau khi đã đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp ở địa phương nơi có Đoàn luật sư mà Trưởng văn phòng luật sư hoặc Giám đốc công ty luật là thành viên và được cấp Giấy phép hoạt động. Theo khoản 1 Điều 78 Luật Luật sư năm 2006, đối với Tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài thì phải đăng ký với Bộ Tư pháp. Về nguyên tắc, luật sư được quyền tham gia tư vấn, giải quyết các vụ, việc trong tất cả các lĩnh vực pháp luật như tài chính, ngân hàng, đầu tư, lao động, sở hữu trí tuệ, v.v.. Tuy nhiên, đối với một số lĩnh vực pháp luật đặc thù, để được thực hiện tư vấn pháp luật, luật sư cần phải đáp ứng một số điều kiện nhất định. Ví dụ điển hình nhất là trường hợp tư vấn pháp luật về vấn đề liên quan đến thủ tục xác lập và thực thi quyền sở hữu công nghiệp trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, luật sư tư vấn cần phải có chứng chỉ hành nghề dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp.
Hiện nay, các Tổ chức hành nghề luật sư ở Việt Nam thường tập trung vào các lĩnh vực hoạt động tư vấn pháp luật chính sau đây: (1) Giao dịch thương mại, đầu tư nước ngoài và hoạt động công ty (bao gồm cả hoạt động mua bán và sáp nhập); (2) Tài chính – ngân hàng; (3) Sở hữu trí tuệ… Đây là các mảng hoạt động mang lại hiệu quả, doanh thu và uy tín lớn cho các tổ chức hành nghề, tạo lập được thương hiệu trong từng lĩnh vực chuyên sâu.
Luật sư đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng để thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật
Điều 29 Luật Luật sư năm 2006 quy định hoạt động đại diện ngoài tố tụng của luật sư. Luật sư đại diện cho khách hàng để giải quyết các công việc có liên quan đến việc mà luật sư đã nhận theo phạm vi, nội dung được ghi trong hợp đồng dịch vụ pháp lý hoặc theo sự phân công của cơ quan, tổ chức nơi luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động. Khi đại diện cho khách hàng, luật sư có quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật có liên quan.
Hoạt động đại diện ngoài tố tụng có thể bao gồm toàn bộ thỏa thuận giữa luật sư và khách hàng về các công việc cần thực hiện theo phạm vi, nội dung được ghi trong hợp đồng dịch vụ pháp lý hoặc theo sự phân công của cơ quan, tổ chức nơi luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động. Hình thức đại diện, thỏa thuận về việc luật sư đại diện cho khách hàng luôn phải được thực hiện bằng văn bản, theo đó, các bên phải lập giấy ủy quyền hoặc hợp đồng ủy quyền được Công chứng viên chứng nhận hoặc Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền chứng thực. Trong văn bản ủy quyền cần thỏa thuận rõ nội dung công việc mà luật sư đại diện; phạm vi, thời gian, thù lao và chi phí đại diện hoặc phương thức tính chi phí, đồng thời cũng cần thỏa thuận rõ các quyền và nghĩa vụ khác giữa hai bên.
Theo Điều 4, Điều 22 và Điều 29 Luật Luật sư năm 2006, các lĩnh vực pháp lý mà luật sư có thể cung cấp dịch vụ đại diện ngoài tố tụng là rất rộng, bao gồm tất cả các lĩnh vực pháp luật, ngoại trừ các lĩnh vực bị cấm theo quy định của các luật, Bộ luật tố tụng và các văn bản có liên quan về hình sự, dân sự và hành chính. Theo Điều 76 Luật Luật sư năm 2006, luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam được tư vấn pháp luật nước ngoài và pháp luật quốc tế, được thực hiện các dịch vụ pháp lý khác liên quan đến pháp luật nước ngoài, được tư vấn pháp luật Việt Nam trong trường hợp có bằng cử nhân luật của Việt Nam và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu tương tự như đối với một luật sư Việt Nam nhưng không được tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trước Tòa án Việt Nam. Do vậy, hoạt động đại diện ngoài tố tụng không áp dụng đối luật sư nước ngoài khi các yêu cầu của khách hàng có liên quan đến pháp luật Việt Nam.
Hoạt động dịch vụ pháp lý khác và hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư
Khi kinh tế – xã hội phát triển thì hiểu biết pháp luật của khách hàng cũng được nâng cao và sự chuyên nghiệp hóa trong môi trường nghề nghiệp luật sư, dịch vụ pháp lý khác của luật sư có cơ hội được phát triển. Mọi vấn đề liên quan đến các lĩnh vực pháp lý khách hàng sẽ tìm đến luật sư nhờ tư vấn. Theo quy định của pháp luật, các dịch vụ pháp lý khác của luật sư rất đa dạng, phát sinh trong nhiều lĩnh vực pháp luật dựa trên yêu cầu của khách hàng. Các dịch vụ pháp lý khác của luật sư cung cấp cho khách hàng không bị giới hạn, ngoại trừ các dịch vụ thuộc phạm vi tư vấn, tham gia tố tụng và đại diện ngoài tố tụng.
Điều 30 Luật Luật sư năm 2006 quy định hoạt động dịch vụ pháp lý khác của luật sư, bao gồm giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc liên quan đến thủ tục hành chính; giúp đỡ về pháp luật trong trường hợp giải quyết khiếu nại; dịch thuật, xác nhận giấy tờ, các giao dịch và giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc khác theo quy định của pháp luật. Khi thực hiện dịch vụ pháp lý khác, luật sư có quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật có liên quan. Dịch vụ pháp lý khác của luật sư là các dịch vụ mà luật sư cung cấp cho khách hàng nhưng không thuộc phạm vi tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng và cũng không thuộc phạm vi đại diện ngoài tố tụng.
Ví dụ 3: Phiên tòa phúc thẩm dân sự xét xử vụ án đòi quyền sử dụng đất kết thúc, Tòa án đã tuyên bố khách hàng của luật sư A thắng kiện, được công nhận và trả lại quyền sử dụng đất đối với diện tích 50m2 . Sau khi khách hàng được thi hành án, được giao lại thửa đất theo bản án, luật sư A đã giúp khách hàng hoàn thiện hồ sơ để làm thủ tục đề nghị cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho khách hàng.
Ví dụ 4: Để đề nghị cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy phép lao động cho khách hàng là người lao động nước ngoài tại Việt Nam, luật sư đã tiến hành dịch thuật, công chứng, chứng thực các giấy tờ, bằng cấp của khách hàng và hoàn thiện hồ sơ cho khách hàng theo đúng các quy định pháp luật lao động Việt Nam.
Ví dụ 5: Luật sư A giúp khách hàng B hoàn thiện hồ sơ để khiếu nại quyết định của Ủy ban nhân dân quận C, thành phố H về việc thu hồi quyền sử dụng đất ở của khách hàng B dùng vào việc xây dựng khu đô thị thuộc dự án V.
Trong thực tế, dịch vụ pháp lý khác của luật sư có thể là dịch vụ chính thức hoặc cũng có thể là dịch vụ có tính chất gia tăng trong một vụ việc khác. Trường hợp là dịch vụ chính thức, luật sư và khách hàng phải ký kết hợp đồng dịch vụ pháp lý để thực hiện các công việc thuộc dịch vụ này. Trường hợp dịch vụ pháp lý khác là dịch vụ gia tăng mà luật sư cung cấp cho khách hàng sau tố tụng, thì giữa luật sư và khách hàng đã có hợp đồng dịch vụ pháp lý từ trước đó nên có thể đã có thỏa thuận về các đối tượng dịch vụ pháp lý khác này. Trong trường hợp chưa có, phải ký kết phụ lục hợp đồng bổ sung, tuy nhiên sẽ không tính thêm thù lao và chi phí luật sư. Do vậy, dịch vụ pháp lý khác lúc này chỉ có tính chất gia tăng hỗ trợ và vẫn thuộc trách nhiệm cung cấp dịch vụ của luật sư với khách hàng, không được tính thêm thù lao hoặc chi phí.[4]
Ngoài ra, thực hiện trợ giúp pháp lý là một trong những nghĩa vụ bắt buộc của luật sư theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 21 Luật Luật sư năm 2006. Điều 31 Luật Luật sư năm 2006 quy định hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư. Khi thực hiện trợ giúp pháp lý, luật sư phải tận tâm với người được trợ giúp như đối với khách hàng trong những vụ, việc có thù lao. Luật sư tham gia phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý miễn phí theo quy định của pháp luật và của Liên đoàn, Đoàn luật sư được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 27 Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam năm 2015.
[1] Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề về Pháp lệnh Luật sư năm 2001, Hà Nội, 2001, tr. 208.
[2] Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề về Pháp lệnh Luật sư năm 2001, Hà Nội, 2001, tr. 107-111.
[3] Liên đoàn luật sư Việt Nam – JICA Pháp luật 2020, Sổ tay Luật sư (tập 1), Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, tr. 85-86.
[4] Liên đoàn luật sư Việt Nam – JICA Pháp luật 2020, Sổ tay Luật sư (tập 1), Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, tr. 98.
Để lại một phản hồi Hủy