Site icon Hocluat.VN

Hoàn thiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Bộ đội Biên phòng

Tóm tắt: Bộ đội Biên phòng là một trong 14 nhóm chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Để đảm bảo hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống các vi phạm hành chính, đòi hỏi phải có cơ sở pháp lý đầy đủ, rõ ràng. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Bộ đội Biên phòng còn có một số hạn chế, bất cập cần được hoàn thiện.

 

Abstract: The Border Guard Force is one of the fourteen legal entities that are authorised to handle the administrative violations. It is required the completeness and clarity of the legal ground so that it is to ensure the effectiveness and efficiency of the fights against the administrative violations. However, there are a number of limitations and shortcomings of legal regulations on authority of the Border Guards Force to handle the administrative violations.

 

Hoàn thiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Bộ đội Biên phòng

Mục lục:

  1. Khái quát thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Bộ đội Biên phòng  
  2. Một số vấn đề bất cập trong các quy định của pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Bộ đội Biên phòng
  3. Kiến nghị hoàn thiện

1. Khái quát thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Bộ đội Biên phòng

Tính đến tháng 9/2019, bên cạnh thẩm quyền chung được quy định tại Điều 40 Luật Xử lý vi phạm hành chính (VPHC) năm 2012, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Bộ đội Biên phòng (Bộ đội Biên phòng) được quy định tại 49 Nghị định[1] với trên 60 lĩnh vực hoạt động[2], bao gồm: Quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia; an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình; báo chí; xuất bản; quốc phòng; kinh doanh sổ số; khí tượng thủy văn; đo đạc, bản đồ; bưu chính; viễn thông; công nghệ thông tin; tần số vô tuyến điện; hải quan; thương mại; sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm; bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; bình đẳng giới; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã; y tế; quản lý phí, lệ phí; lao động; bảo hiểm xã hội; đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài; quyền tác giả, quyền liên quan; quản lý các vùng biển, đảo và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đất đai; giao thông đường thủy nội địa; giống cây trồng; bảo vệ và kiểm dịch thực vật; bảo vệ môi trường; tài nguyên nước; khoáng sản; dầu khí; kinh doanh xăng dầu và khí; thú y; phòng, chống thiên tai; khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi; đê điều; tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật; đo lường; chất lượng sản phẩm hàng hóa; hàng hải; phân bón; giống vật nuôi; an toàn thực phẩm; thể thao; du lịch; lâm nghiệp; thủy sản.

Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và các Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính có liên quan quy định thống nhất các chức danh có thẩm quyền xử phạt trong Bộ đội Biên phòng, bao gồm 09 loại chức danh: Chiến sĩ Bộ đội Biên phòng đang thi hành công vụ; Trạm trưởng, Đội trưởng của Chiến sĩ Bộ đội Biên phòng đang thi hành công vụ; Đồn trưởng Đồn biên phòng, Hải đội trưởng Hải đội biên phòng, Chỉ huy trưởng Tiểu khu biên phòng, Chỉ huy trưởng biên phòng Cửa khẩu cảng; Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh, Chỉ huy trưởng Hải đoàn biên phòng trực thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng. Thẩm quyền xử phạt của Bộ đội Biên phòng gồm có thẩm quyền áp dụng 04 hình thức xử phạt và 05 loại biện pháp khắc phục hậu quả[3]. Trong đó, tất cả các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong Bộ đội Biên phòng đều có thẩm quyền xử phạt cảnh cáo và phạt tiền. Thẩm quyền phạt tiền của từng loại chức danh được tính theo tỷ lệ phần trăm hoặc được xác định cụ thể mức tối đa theo quy định của từng Nghị định. Hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn chỉ có chức danh Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh, Chỉ huy trưởng Hải đoàn biên phòng trực thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng được áp dụng. Hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thuộc thẩm quyền của Đồn trưởng Đồn Biên phòng, Hải đội trưởng Hải đội biên phòng, Chỉ huy trưởng Tiểu khu biên phòng, Chỉ huy trưởng biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh, Chỉ huy trưởng Hải đoàn Biên phòng trực thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng. Các biện pháp khắc phục hậu quả thuộc thẩm quyền của Bộ đội Biên phòng được quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính có liên quan. Để ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính, Bộ đội Biên phòng được quyền áp dụng 06 biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính. Trong trường hợp cần thiết, các chức danh có thẩm quyền xử phạt trong Bộ đội Biên phòng (trừ Chiến sĩ Bộ đội Biên phòng đang thi hành công vụ) được giao quyền cho cấp phó thực hiện thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính (một cách thường xuyên hoặc theo vụ việc, bằng văn bản).

2. Một số vấn đề bất cập trong các quy định của pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Bộ đội Biên phòng 

Một là, các văn bản dưới luật quy định cách xác định về thẩm quyền phạt tiền của chức danh Đồn trưởng Đồn Biên phòng và tương đương không thống nhất; quy định thẩm quyền về xử phạt vi phạm hành chính trong Bộ đội Biên phòng chưa phù hợp với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.

Mức phạt tiền tối đa là 50.000.000 đồng (theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 24 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và các Nghị định có liên quan) được quy định đối với 10 lĩnh vực thuộc thẩm quyền xử phạt của Bộ đội Biên phòng là: Quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia; hóa chất; thể thao; du lịch; phòng và chữa cháy; bổ trợ tư pháp; quản lý phí, lệ phí; khí tượng thủy văn; bảo vệ và kiểm dịch thực vật; thú y; nhưng quy định không thống nhất. Tuy nhiên, trong các Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính có cách xác định khác nhau:

1) Đồn trưởng Đồn Biên phòng và tương đương được phạt tiền đến 25.000.000 đồng trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia[4]; thể thao[5] và du lịch[6];

2) Chức danh này chỉ được phạt tiền đến 10.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực hóa chất[7]; khí tượng thủy văn[8]; bảo vệ và kiểm dịch thực vật[9]; thú y[10];

3) Viện dẫn cách xác định thẩm quyền phạt tiền theo Điều 40 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 trong ba lĩnh vực: Phòng và chữa cháy[11]; bổ trợ tư pháp[12]; quản lý phí, lệ phí[13]. Theo đó, Điều 40 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định, thẩm quyền phạt tiền được tính theo tỷ lệ phần trăm, nhưng không vượt quá mức tối đa của khung tiền phạt đã được xác định đối với một số chức danh. Cách hiểu phổ biến là khi tính thẩm quyền phạt tiền theo tỷ lệ phần trăm, nếu không vượt quá mức tối đa thì quy định và thực hiện theo thẩm quyền phạt tiền đó; nếu vượt quá thì chỉ được phép tính đến mức tối đa theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Do đó, trong ba lĩnh vực này, thẩm quyền phạt tiền của chức danh Đồn trưởng Đồn biên phòng và tương đương đều là đến 10.000.000 đồng.

4) Nghị định số 67/2017/NĐ-CP ngày 25/5/2017 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực dầu khí, kinh doanh xăng dầu và khí quy định: Chiến sĩ Bộ đội Biên phòng đang thi hành công vụ có quyền phạt tiền đến 2.000.000 đồng. Quy định này trái với việc giới hạn mức tối đa trong phạt tiền của chức danh này theo Điều 40 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (không quá 500.000 đồng đối với cá nhân, không quá 1.000.000 đồng đối với tổ chức). Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh, Chỉ huy trưởng Hải đoàn biên phòng trực thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng được phạt tiền đến 1.000.000.000 đồng[14]theo Nghị định số 33/2017/NĐ-CP ngày 03/4/2017 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản. Quy định này cũng không phù hợp với quy định tại Điều 40 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 vì Nghị định điều chỉnh hành vi vi phạm trong hai lĩnh vực mà theo Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì mức phạt tiền tối đa đối với một hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước là 250.000.000 đồng đối với cá nhân và 500.000.000 đồng đối với tổ chức; trong lĩnh vực khoáng sản là 1.000.000.000 đồng đối với cá nhân và 2.000.000.000 đồng đối với tổ chức[15].

Hai là, các văn bản dưới luật quy định thẩm quyền phạt tiền còn mang tính hình thức, không khả thi; có văn bản đã thu hẹp thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính của chức danh Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh, Hải đoàn trưởng Hải đoàn biên phòng trực thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng.

1) Thẩm quyền phạt tiền còn mang tính hình thức, không khả thi

– Nghị định số 42/2019/NĐ-CP của Chính phủ quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Bộ đội Biên phòng, bao gồm: Chiến sĩ Bộ đội Biên phòng đang thi hành công vụ được quyền xử phạt 01 hành vi (Khoản 1 Điều 38); Trạm trưởng, Đội trưởng của chiến sĩ Bộ đội Biên phòng đang thi hành công vụ được quyền xử phạt 04 hành vi (khoản 1 Điều 27; khoản 1 Điều 37; khoản 1, 2 Điều 38); Đồn trưởng Đồn biên phòng, Hải đội trưởng Hải đội biên phòng, Chỉ huy trưởng Tiểu khu biên phòng được quyền xử phạt 68 hành vi (điểm c, khoản 4 Điều 54); Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh, Chỉ huy trưởng Hải đoàn biên phòng trực thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng được quyền xử phạt 159 hành vi (điểm d, khoản 4 Điều 54). Đối chiếu với các hành vi vi phạm hành chính thuộc thẩm quyền xử phạt của Bộ đội Biên phòng thì mức tiền phạt cao nhất mà Bộ đội Biên phòng có thể áp dụng là 300.000.000 đồng đối với cá nhân và 600.000.000 đồng đối với tổ chức. Hành vi vi phạm của cá nhân có thể bị phạt tiền tới 1.000.000.000 đồng là hành vi vi phạm hành chính quy định tại Điều 20 và Điều 42 của Nghị định này đều không thuộc thẩm quyền xử phạt của Bộ đội Biên phòng. Như vậy, quy định thẩm quyền phạt tiền của Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh, Hải đoàn trưởng Hải đoàn Biên phòng trực thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng là “1.000.000.000 đồng” không có tính khả thi. Điều bất khả thi còn thể hiện ở việc quy định cố định chức danh này chỉ được phạt tiền là “1.000.000.000 đồng” (trong khi quy định chính xác phải là “đến 1.000.000.000 đồng”).

– Nghị định số 46/2019/NĐ-CP của Chính phủ quy định thẩm quyền xử phạt của Bộ đội Biên phòng tại Điều 25 và Điều 27. Theo quy định tại khoản 4 Điều 27 của Nghị định này thì những người có thẩm quyền xử phạt của Bộ đội Biên phòng có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm hành chính quy định tại khoản 3 Điều 18 và khoản 3 Điều 19 Nghị định này theo thẩm quyền quy định tại Điều 25 Nghị định này và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Trong đó, khoản 3 Điều 18, khoản 3 Điều 19 quy định về mức tiền phạt tối đa là 15.000.000 đồng, hình thức xử phạt bổ sung là “Đình chỉ hoạt động thể thao có thời hạn từ 01 tháng đến 03 tháng. Đối chiếu với thẩm quyền của các chức danh trong Bộ đội Biên phòng thì các chức danh Chiến sĩ Bộ đội Biên phòng đang thi hành công vụ; Trạm trưởng, Đội trưởng của Chiến sĩ Bộ đội Biên phòng đang thi hành công vụ đều không có thẩm quyền. Do đó, việc quy định các chức danh với những thẩm quyền cụ thể tại khoản 1 và khoản 2 Điều 25 của Nghị định số 46/2019/NĐ-CP cũng chỉ mang tính hình thức, không thể có khả năng áp dụng. Đồng thời, trong phân định thẩm quyền nêu trên, thì các chức danh Đồn trưởng Đồn Biên phòng, Hải đội trưởng Hải đội biên phòng, Chỉ huy trưởng Tiểu khu biên phòng, Chỉ huy trưởng biên phòng Cửa khẩu cảng; Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh, Chỉ huy trưởng Hải đoàn biên phòng trực thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng cũng không thể thực hiện được thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt “Đình chỉ hoạt động thể thao có thời hạn từ 03 tháng đến 06 tháng” vì Nghị định quy định thẩm quyền này cho họ[16] nhưng đối với hành vi vi phạm thuộc thẩm quyền xử phạt của họ thì lại không quy định[17].

Ngoài ra, khoản 4 Điều 27 Nghị định số 46/2019/NĐ-CP của Chính phủ quy định Bộ đội Biên phòng có thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, khoản 3 Điều 18, khoản 3 Điều 19 và Điều 25 của Nghị định này đều không đề cập đến một biện pháp khắc phục hậu quả nào thuộc thẩm quyền của Bộ đội Biên phòng. Bởi vậy, về thực chất trong Nghị định này, Bộ đội Biên phòng không có thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả.

2) Thu hẹp thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính của chức danh Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh, Hải đoàn trưởng Hải đoàn biên phòng trực thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng so với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Theo quy định tại điểm d khoản 4 Điều 40 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh, Chỉ huy trưởng Hải đoàn biên phòng trực thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng có quyền “Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính” mà không phụ thuộc vào giá trị tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu. Tuy nhiên, trong một số Nghị định xác định cụ thể thẩm quyền của Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh, Chỉ huy trưởng Hải đoàn biên phòng trực thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng lại giới hạn thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính của chức danh nêu trên thông qua việc quy định giới hạn giá trị tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu[18].

Ba là, có sự mẫu thuẫn giữa quy định của văn bản dưới luật với Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 về thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả.

Theo quy định tại Điều 40 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, đối với chức danh Đồn trưởng Đồn biên phòng, Hải đội trưởng Hải đội biên phòng, Chỉ huy trưởng Tiểu khu biên phòng, Chỉ huy trưởng biên phòng Cửa khẩu cảng có quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các điểm a, c, đ và k khoản 1 Điều 28 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012; các chức danh Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh, Chỉ huy trưởng Hải đoàn biên phòng trực thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng có quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các điểm a, c, đ, i và k khoản 1 Điều 28 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Tuy nhiên, các loại chức danh này đều không có thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là “Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện[19].

Tuy nhiên, khoản 4 Điều 35 Nghị định số 115/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định người có thẩm quyền xử phạt của Bộ đội Biên phòng có quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm hành chính liên quan đến hoạt động thu gom, bán, cung cấp, nhập khẩu thực phẩm quy định tại khoản 1 Điều 19 Nghị định này (hành vi quy định tại khoản 1 Điều 19 bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là “buộc tái xuất thực phẩm, phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa đựng tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm”.

Điểm d khoản 4 Điều 75 Nghị định số 67/2017/NĐ-CP ngày 25/5/2017 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực dầu khí, kinh doanh xăng dầu và khí quy định, Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh, Chỉ huy trưởng Hải đoàn biên phòng trực thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng có quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 3 Nghị định này (trong đó, điểm d khoản 3 Điều 3 quy định “Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng hóa là xăng dầu, khí”), đồng thời, căn cứ vào khoản 3 Điều 80 Nghị định này, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của lực lượng Bộ đội Biên phòng có thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm hành chính quy định tại Điều 16 (điểm b khoản 7 Điều 16 có quy định biện pháp khắc phục hậu quả nêu trên).

Bốn là, một số văn bản dưới luật có hiệu lực trước năm 2012 chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời nên không phù hợp với Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.

Nghị định số 55/2009/NĐ-CP ngày 10/6/2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về bình đẳng giới. Trong đó, đối với thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Bộ đội Biên phòng có nhiều vấn đề không phù hợp với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 như quy định về thẩm quyền xử phạt của các chức danh trong Bộ đội Biên phòng; căn cứ pháp lý áp dụng các quy định có liên quan trong xử phạt vi phạm hành chính; trong Nghị định không nêu rõ quy định mức phạt tiền đối với cá nhân hay tổ chức mà chỉ xác định “mức phạt cụ thể đối với từng hành vi vi phạm” (khoản 1 Điều 5)…

Ngoài ra, các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong Bộ đội Biên phòng trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 không phù hợp với chức danh hiện đang thực hiện trong lực lượng Bộ đội Biên phòng. Ví dụ, Điều 40 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong Bộ đội Biên phòng gồm: Chiến sĩ Bộ đội Biên phòng đang thi hành công vụ; Trạm trưởng, Đội trưởng của người được quy định tại khoản 1 Điều 40; Đồn trưởng Đồn biên phòng, Hải đội trưởng Hải đội biên phòng, Chỉ huy trưởng Tiểu khu biên phòng, Chỉ huy trưởng biên phòng Cửa khẩu cảng; Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh, Chỉ huy trưởng Hải đoàn biên phòng trực thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng. Trong khi đó, chức danh “chiến sĩ Bộ đội Biên phòng đang thi hành công vụ” lại được gọi là “Chiến sĩ Biên phòng”[20]; chức danh “Đồn trưởng Đồn Biên phòng” được gọi là “Trưởng Đồn biên phòng”[21].

3. Kiến nghị hoàn thiện

Thứ nhất, quy định thống nhất mức tiền phạt tối đa đối với chức danh Đồn trưởng Đồn biên phòng và tương đương, theo hướng: Khi tính toán theo tỷ lệ phần trăm (20% mức tối đa), nếu mức tiền phạt tối đa nhỏ hơn mức giới hạn (25.000.000 đồng) thì xác định theo số tiền cụ thể dựa trên tỷ lệ phần trăm đó; nếu mức phạt tiền tối đa cao hơn hoặc bằng mức giới hạn (25.000.000 đồng) thì chỉ được quy định mức tiền phạt tối đa là 25.000.000 đồng.

Đối với những Nghị định quy định nhiều lĩnh vực xử phạt mà mỗi lĩnh vực có mức phạt tiền tối đa khác nhau, thì trong Nghị định cần quy định rõ chức danh Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh, Chỉ huy trưởng Hải đoàn biên phòng trực thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng được phạt tiền đến mức tối đa của từng lĩnh vực cụ thể là bao nhiêu.

Thứ hai, rà soát, sửa đổi những quy định mang tính bất khả thi về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Bộ đội Biên phòng, đính chính những nội dung sai sót về kỹ thuật trong Nghị định. Cụ thể: Đính chính quy định “phạt tiền 1.000.000.000 đồng” thành “phạt tiền đến 1.000.000.000 đồng” tại điểm a khoản 4 Điều 48 Nghị định số 42/2019/NĐ-CP. Trong Nghị định số 46/2019/NĐ-CP bỏ chức danh có thẩm quyền xử phạt là Chiến sĩ Bộ đội Biên phòng đang thi hành công vụ, Trạm trưởng, Đội trưởng của Chiến sĩ Bộ đội Biên phòng đang thi hành công vụ; bỏ hình thức xử phạt “Đình chỉ hoạt động thể thao có thời hạn từ 03 tháng đến 06 tháng”; bỏ quy định Bộ đội Biên phòng có thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả.

Thứ ba, bỏ quy định “không vượt quá giá trị tang vật, phương tiện bị tịch thu” khi áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thuộc thẩm quyền của Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh, Chỉ huy trưởng Hải đoàn biên phòng trực thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng[22], bởi đây là quy định trái Luật. Bên cạnh đó, xuất phát từ thực tiễn thực hiện thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Bộ đội Biên phòng, có nhiều vụ vi phạm hành chính mà giá trị tang vật, phương tiện vi phạm hành chính lớn, vượt quá mức phạt tiền của chức danh Đồn trưởng Đồn Biên phòng và tương đương, nếu phải chuyển vụ việc lên cấp trên hoặc cấp có thẩm quyền sẽ xảy ra tình trạng dồn việc lên trên mà tính chất vụ việc đó không quá phức tạp. Do đó, nên hủy bỏ quy định “không vượt quá giá trị tang vật, phương tiện bị tịch thu” khi áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với tất cả các chức danh có thẩm quyền của Bộ đội Biên phòng.

Thứ tư, sửa đổi Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 theo hướng bổ sung thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả “Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện” cho chức danh Đồn trưởng Đồn biên phòng, Hải đội trưởng Hải đội biên phòng, Chỉ huy trưởng Tiểu khu biên phòng, Chỉ huy trưởng biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh, Chỉ huy trưởng Hải đoàn biên phòng trực thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng. Bởi lẽ, đây là yêu cầu khách quan của việc xử phạt vi phạm hành chính của Bộ đội Biên phòng, khi những năm gần đây, qua công tác xử phạt vi phạm hành chính của Bộ đội Biên phòng ở khu vực biên giới thường xuất hiện những hành vi vi phạm nhập khẩu hàng hóa liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường, cần áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả này.

Ngoài ra, cần quy định thống nhất các chức danh của Bộ đội Biên phòng là “Chiến sĩ Bộ đội Biên phòng đang thi hành công vụ” và “Đồn trưởng Đồn Biên phòng”; đồng thời, sớm ban hành Nghị định thay thế Nghị định số 55/2009/NĐ-CP của Chính phủ.

TS. PHẠM THỊ THANH HUẾ

Trung tá.Chủ nhiệm bộ môn, Khoa Pháp luật, Học viện Biên phòng

Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 19 (395), tháng 10/2019.


[1] Thống kê từ nguồn https://thuvienphapluat.vn/ và http://www.chinhphu.vn.

[2] Nếu phân chia theo Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì có 67 lĩnh vực, đồng thời tên gọi của một số lĩnh vực có sự khác biệt nhất định so với cách gọi của Nghị định.
[3] Điều 40 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
[4] Khoản 3 Điều 13 Nghị định số 169/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia.
[5] Khoản 3 Điều 25 Nghị định số 46/2019/NĐ-CP ngày 27/5/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thể thao.
[6] Khoản 3 Điều 22 Nghị định số 45/2019/NĐ-CP ngày 21/5/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch.
[7] Khoản 3 Điều 63 Nghị định số 71/2019/NĐ-CP ngày 30/8/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hóa chất và vật liệu nổ công nghiệp.
[8] Điều 19b Nghị định số 84/2017/NĐ-CP ngày 18/7/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 173/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khí tượng thủy văn, đo đạc và bản đồ.
[9] Khoản 3 Điều 37 Nghị định số 31/2016/NĐ-CP ngày 06/5/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giống cây trồng, bảo vệ và kiểm dịch thực vật.
[10] Khoản 3 Điều 46 Nghị định số 90/2017/NĐ-CP ngày 31/7/2017 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thú y.
[11] Điều 68 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình.
[12] Điều 73 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
[13] Khoản 11 Điều 43 Nghị định số 109/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý giá, phí, lệ phí, hóa đơn, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 49/2016/NĐ-CP ngày 27/5/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 109/2013/NĐ-CP.
[14] Khoản 4 Điều 63 Nghị định số 33/2017/NĐ-CP ngày 03/4/2017 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản.
[15] Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 33/2017/NĐ-CP ngày 03/4/2017 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản.
[16] Điểm d khoản 3 và điểm d khoản 4 Điều 25 Nghị định số 46/2019/NĐ-CP.
[17] Khoản 3 Điều 18, khoản 3 Điều 19 Nghị định số 46/2019/NĐ-CP.
[18] Điểm d khoản 4 Điều 13 Nghị định số 169/2013/NĐ-CP; điểm d khoản 4 Điều 22 Nghị định số 45/2019/NĐ-CP.
[19] Điểm d khoản 1 Điều 28 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
[20] Khoản 1 Điều 29 Nghị định số 62/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định về XPVPHC trên các vùng biển, đảo và thềm lục địa của Việt Nam, được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 23/2017/NĐ-CP
[21] Khoản 3 Điều 13 Nghị định số 169/2013/NĐ-CP); chức danh “Hải đội trưởng Hải đội Biên phòng” được gọi là “Chỉ huy trưởng Hải đội biên phòng” (khoản 3 Điều 13 Nghị định số 169/2013/NĐ-CP.

[22] Điểm d khoản 4 Điều 22 Nghị định số 45/2019/NĐ-CP ngày 21/5/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch; điểm d khoản 4 Điều 13 Nghị định số 169/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia.

5/5 - (2247 bình chọn)

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền

Exit mobile version