Site icon Hocluat.VN

Giải thích pháp luật ở Việt Nam – Một số vấn đề lý luận, thực trạng và giải pháp

Luật

Theo từ điển Tiếng Việt, “giải thích” là làm cho hiểu; là việc dùng lý lẽ để giảng giải giúp người nghe hiểu rõ và hiểu đúng vấn đề. Về giải thích pháp luật thì đầu tiên nó là giải thích tập quán pháp được thực hiện bởi các nhà triết gia và nhà chính trị học.

 

Các nội dung liên quan:

 

Khái niệm giải thích pháp luật

Khái niệm giải thích pháp luật chỉ thật sự trở thành một thuật ngữ xã hội – pháp lý trong thời kỳ tư sản. Theo đó, giải thích pháp luật được hiểu là việc làm sáng tỏ về mặt tư tưởng và nội dung các quy phạm pháp luật, bảo đảm cho sự nhận thức và thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất pháp luật; là nhằm xây dựng lại ý tưởng mà tác giả mong muốn truyền đạt qua các quy định của văn bản pháp luật đó. Hoặc xét về thực chất, giải thích pháp luật là việc xác định nội dung và phạm vi áp dụng của văn bản hay một quy định cụ thể của văn bản đó. Như vậy, giải thích pháp luật được hiểu là việc làm rõ hơn về tinh thần, nội dung, phạm vi, ý nghĩa và mục đích các quy định của pháp luật so với nội dung ban đầu của nó, giúp mọi người hiểu và thực thi các quy định của pháp luật một cách chính xác và thống nhất. Theo nghĩa hẹp, giải thích pháp luật là một hoạt động thể hiện quyền lực nhà nước, do đó các nội dung của nó phải được các văn bản quy phạm pháp luật quy định và khi thực hiện giải thích pháp luật các chủ thể buộc phải tuân theo[1]. Ở Việt Nam, thuật ngữ “giải thích pháp luật” được đề cập đến từ Hiến pháp năm 1959, nhưng cho đến nay, chưa có một quy định pháp lý nào đưa ra khái niệm về “giải thích pháp luật” mà chỉ có Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 đưa ra quy định: “Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh là việc Ủy ban thường vụ Quốc hội làm rõ tinh thần, nội dung của điều, khoản, điểm trong Hiến pháp, luật, pháp lệnh để có nhận thức, thực hiện, áp dụng đúng, thống nhất pháp luật” (khoản 3 Điều 3).

Trong lý luận nhà nước và pháp luật của các nước xã hội chủ nghĩa, thông thường, giải thích pháp luật có hai hình thức: Giải thích chính thức và giải thích không chính thức[2]. Giải thích chính thức thường được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, có giá trị pháp lý, mang tính bắt buộc thực hiện. Giải thích không chính thức không có giá trị pháp lý, chỉ có tính chất tham khảo, không bắt buộc thực hiện, có thể được tiến hành bởi bất kỳ chủ thể nào nhưng thường là các cơ quan, tổ chức, cá nhân nghiên cứu khoa học. Việc giải thích không chính thức Hiến pháp, luật, pháp lệnh ở nước ta chủ yếu là những người nghiên cứu, giảng dạy khoa học pháp lý tiến hành vào thời điểm khi có Hiến pháp hay một đạo luật, pháp lệnh quan trọng nào đó mới ban hành mà những người có trách nhiệm áp dụng pháp luật rất ít khi nêu vấn đề, nêu những hạn chế của các điều luật cần phải giải thích. Vì thế, việc giải thích không chính thức chưa hình thành được một kênh dư luận xã hội từ những nhà khoa học cũng như từ những người hoạt động thực tiễn trong việc áp dụng và thực hiện pháp luật để từ đó đòi hỏi phải giải thích chính thức Hiến pháp, luật, pháp lệnh.

Giải thích pháp luật là một nhu cầu tất yếu khách quan đối với mọi xã hội và mọi hệ thống pháp luật. Bởi lẽ, về lý thuyết, nhu cầu này chỉ không phát sinh khi và chỉ khi có một hệ thống pháp luật hoàn thiện tuyệt đối và nhận thức pháp luật của người dân ở trình độ cao. Vì tầm quan trọng của giải thích pháp luật mà việc giải thích pháp luật không thể “buông lỏng”, tức là không thể mặc nhiên thừa nhận hoặc công nhận kết quả của mọi hoạt động giải thích pháp luật đều là pháp luật, được thực thi và bảo đảm bằng quyền lực nhà nước. Bởi nếu bất cứ kết quả giải thích pháp luật nào cũng đều được công nhận thì chắc chắn mỗi chủ thể sẽ giải thích một kiểu, theo nhận thức, trình độ chuyên môn, vị trí, địa vị xã hội và lợi ích của mình. Điều này sẽ làm cho hệ thống pháp luật rối tung và trật tự xã hội bị đảo lộn, không thể quản lý. Để khắc phục tình trạng đó, pháp luật các nước bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp đều ghi nhận hoặc thừa nhận những hoạt động giải thích nào là giải thích chính thức, hợp pháp và có giá trị pháp lý. Một cách thức phổ biến được áp dụng đó là các nhà nước đã dùng quyền lực nhà nước để thu hẹp phạm vi của các chủ thể trong hoạt động giải thích, đồng thời xác định hình thức, giá trị pháp lý của kết quả giải thích và luật định về trình tự, thủ tục trong giải thích pháp luật. Nói cách khác, hoạt động giải thích pháp luật đã được thiết lập để trở thành một thẩm quyền của một chủ thể nhất định mang quyền lực nhà nước[3].

Trên thế giới, hầu hết các nước đều quy định hay có xu hướng trao quyền giải thích Hiến pháp, luật chủ yếu cho Tòa án (cơ quan tư pháp). Bởi vì, qua thực tiễn cho thấy, công tác xét xử đòi hỏi cần phải giải thích pháp luật, hay nói cách khác, Tòa án cần được trao quyền giải thích pháp luật để xét xử; hơn nữa, việc giải thích Hiến pháp, luật, thì cơ quan tư pháp có nhiều ưu thế hơn so với cơ quan lập pháp, hành pháp. Tuy nhiên, các nước này cũng không bác bỏ quyền giải thích pháp luật của cơ quan lập pháp và hành pháp, nhưng Tòa án vẫn là cơ quan chủ yếu, có quyền cao nhất trong việc giải thích pháp luật. Mặc dù vậy, cũng có nước, Tòa án đóng vai trò quan trọng trong giải thích pháp luật nhưng lại không có cơ sở pháp lý ghi nhận chính thức điều này mà “ngầm” trao quyền này cho Tòa án qua quy định “Tòa án không được phép từ chối xét xử do thiếu công lý”, do đó Tòa án buộc phải giải thích để thực hiện xét xử.

Tại một nghiên cứu, tác giả của nghiên cứu này đã đưa ra một số lý do để cho rằng, ở nước ta, nếu trao quyền giải thích pháp luật cho cơ quan tư pháp (theo nghĩa hẹp là hệ thống Tòa án) là khá phù hợp: Thứ nhất, Tòa án với tư cách là trọng tài sẽ có sự giải thích pháp luật công bằng, hợp lý nhất. Nếu Tòa án giải thích pháp luật sẽ bảo đảm tính khách quan, công bằng và hợp lý nhất; thứ hai, Tòa án với các thẩm phán được đào tạo chuyên nghiệp và kinh nghiệm lâu năm trong công tác pháp luật là thích hợp nhất với yêu cầu này; thứ ba, thực tế cho thấy, các nhu cầu giải thích đều phát sinh và gắn liền hữu cơ với một vụ việc cụ thể. Chính Tòa án là cơ quan thường gặp các vụ việc này nhất; thứ tư, nhiều nước trên thế giới cũng đề cao thẩm quyền giải thích pháp luật cho cơ quan tư pháp và thu được nhiều thành tựu.

Thực trạng giải thích pháp luật ở Việt Nam

Mặc dù giải thích pháp luật ở nước ta đã được đề cập từ khá sớm, nhưng vấn đề này lại chưa được quan tâm đúng mức. Từ Hiến pháp năm 1959 (Điều 53) đã quy định giải thích pháp luật là một quyền hạn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Hiện nay, quyền này tiếp tục được ghi nhận tại Hiến pháp năm 2013 (Điều 74) nhưng đã có sự thu hẹp lại là chỉ “giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh”. Việc Việt Nam quy định Ủy ban Thường vụ Quốc hội là chủ thể có thẩm quyền giải thích pháp luật không phải là không có lý do của nó, lý do này có nguồn gốc từ cách nhận thức, cách tổ chức và vận hành quyền lực của Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, đây nhất định không phải là chủ thể thích hợp nhất cho thẩm quvền giải thích pháp luật, đặc biệt trong giai đoạn nước ta đang tiến hành cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền định hướng xã hội chủ nghĩa. Ủy ban Thường vụ Quốc hội thời gian qua mặc dù đã rất cố gắng nhưng vẫn không thể thực hiện chức năng giải thích pháp luật một cách hiệu quả. Điều này có thể lý giải bởi các lý do sau: Thứ nhất, Ủy ban Thường vụ Quốc hội không có các chất liệu đời sống từ phía người dân để cân bằng với các quy phạm hiến định, pháp định từ phía cơ quan nhà nước. Thứ hai, họ nhìn các quy định hiến định và pháp định dưới con mắt của người trong cuộc chứ không phải dưới con mắt của chủ thể phản biện, chủ thể đánh giá. Thứ ba, tư cách của họ không hoàn toàn độc lập với các chủ thể lập pháp, lập hiến, bởi vì họ là chủ thể đắc lực tham gia vào quá trình lập pháp, lập hiến đó. Thứ tư, quan trọng hơn, các yêu cầu về giải thích pháp luật không đến với họ, một phần vì họ không nhận thấy, phần khác vì đã luôn có các chủ thể khác bằng nhiều cách thức, thực hiện công việc giải thích pháp luật trong thực tế[4].

Cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, một số văn bản luật cũng có quy định về vấn đề này chẳng hạn như: Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015: khoản 3 Điều 3 quy định thế nào là “giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh”; điểm a khoản 2 Điều 16 quy định loại văn bản ban hành để giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh (nghị quyết); Điều 158 quy định về các trường hợp và nguyên tắc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; Điều 159 quy định về thẩm quyền đề nghị giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; Điều 160 quy định về trình tự, thủ tục giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; Điều 161 quy định về đăng công báo, đăng tải và đưa tin nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Tiếp đó, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 tại Điều 49 cũng đã có quy định về vấn đề giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh.

Có thể thấy, trong điều kiện Việt Nam, với thực trạng của hệ thống pháp luật và ý thức pháp luật của người dân còn nhiều hạn chế thì nhu cầu giải thích pháp luật trở nên thật sự cần thiết và có vai trò quan trọng. Tuy nhiên, trên thực tế, Ủy ban Thường vụ Quốc hội lại rất ít khi sử dụng quyền giải thích của mình. Nó không trở thành hoạt động thường xuyên mà chỉ là hy hữu. Chính vì vậy, dù Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan duy nhất được trao quyền giải thích chính thức Hiến pháp, luật, pháp lệnh nhưng để giải quyết kịp thời nhu cầu thực tiễn đặt ra, các chủ thể khác (cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp) buộc phải thực hiện hoạt động giải thích pháp luật không chính thức. Thực trạng đó dẫn đến những vấn đề liên quan đến giá trị pháp lý của các sản phẩm giải thích pháp luật, cơ chế kiểm soát về hoạt động giải thích pháp luật của các chủ thể khác và đối tượng của giải thích pháp luật.
Ở nước ta đang có tình trạng nhầm lẫn văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn chi tiết, thậm chí là thông tư, công văn hướng dẫn… của cơ quan hành pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Ngân hàng Nhà nước là văn bản giải thích pháp luật theo đúng nghĩa. Giải thích pháp luật là việc làm sáng tỏ tinh thần, nội dung những quy định pháp luật còn chưa rõ về mặt ngôn từ hoặc khi có sự xung đột, mâu thuẫn trong quá trình hiểu và áp dụng pháp luật. “Thông thường nếu ngôn ngữ của một điều khoản luật đã đủ trong sáng và đơn nghĩa thì sẽ ít có khả năng cần giải thích điều khoản đó”. Yếu tố chưa rõ như đã đề cập ở trên có thể là do bản thân các từ ngữ chứa đựng các quy định pháp luật chưa đủ trong sáng, chưa đủ rõ ràng; chưa rõ cũng có thể là đồng thời gây ra những cách hiểu khác nhau về nội dung của quy định pháp luật đó, làm khó khăn cho việc hiểu thống nhất cũng như việc thực hiện trong thực tế. Việc giải thích này có bản chất là, dù chủ thể nào giải thích đi chăng nữa cũng phải gặp nhau ở sự hợp lý, ở sự chuẩn xác của vấn đề này thì hiểu nó như thế này, có muốn làm khác đi cũng không được. Cái đáng bàn là giải thích nào được cho là giải thích mang tính phán quyết hay giải thích chính thức mà thôi. Quy định chi tiết là việc cơ quan có thẩm quyền được giao ban hành những văn bản pháp luật có nội dung cụ thể hóa, chi tiết hóa các văn bản pháp luật có hiệu lực cao hơn, để các văn bản pháp luật đó có đủ điều kiện thực thi trong cuộc sống… Hoạt động này có đặc trưng là chỉ có chủ thể được giao quyền này, chủ thể khác không có. Đây thực chất là hoạt động “lập pháp bổ sung”, bởi các quy định chi tiết, hướng dẫn cũng đều có tính quy phạm, tức là đều có phạm vi và sự chi phối giống y như văn bản “mẹ” (ở đây chưa bàn đến nội dung và chất lượng cụ thể của các văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết) và các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của các văn bản pháp luật đó “chỉ được làm thế này mà không được làm thế khác” (tất nhiên về lý thuyết vẫn có một nguyên tắc là nếu có sự không thống nhất giữa các văn bản pháp luật thì văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn sẽ có hiệu lực áp dụng…). Quy định chi tết còn có một đặc trưng khá nổi bật là tính thời điểm, có thể lúc này, do các yêu cầu này nên quy định như thế này, sang thời điểm khác, do các yêu cầu khác lại quy định khác, điều này được chứng minh bằng sự thay thế, hủy bỏ các văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết trong thực tế…[5]. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, việc phân biệt này là rất khó bởi các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành ở góc độ nào đó cũng có chứa đựng yếu tố mang tính giải thích.
Theo chiều dài lịch sử quy định về giải thích pháp luật ở nước ta, thì Tòa án chưa bao giờ được trao quyền giải thích chính thức. Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng, quyền này đã được “ngầm” trao cho Tòa án thể hiện ở các quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 như: Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ, quyền hạn: “… Tổng kết thực tiễn xét xử của các Tòa án, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử…” (khoản 3 Điều 20); Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ, quyền hạn: “… Lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử…” (điểm c khoản 2 Điều 22). Bên cạnh đó, theo quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân, chánh án Tòa án và thẩm phán trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì Tòa án có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, pháp lệnh… Ngoài ra, thực tế, thời gian qua, ở góc độ nào đó, cũng có thể coi Tòa án đã thực hiện việc giải thích pháp luật thông qua hoạt động diễn giải, làm rõ các quy định của pháp luật bằng các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền, thể hiện rõ nhất trong các nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và 10 án lệ được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành trong Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06/4/2016 và Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 về việc công bố án lệ. Phải chăng đây chính là tiền đề, bước đệm để trong tương lai gần sẽ trao quyền giải thích pháp luật cho Tòa án?

Hiến pháp có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, là luật gốc, có tính tối thượng, về nguyên tắc thì không có một văn bản pháp luật nào có hiệu lực pháp lý cao hơn Hiến pháp. Chính vì vậy, giải thích Hiến pháp cũng được tiếp cận khác với giải thích luật thông thường. Một trong những điểm khác biệt giữa giải thích Hiến pháp và giải thích luật thông thường chính là giải thích luật nhằm mục đích áp dụng vào một tình huống cụ thể trong khi giải thích Hiến pháp là để tuyên bố một luật nào đó hay một phần của nó không phù hợp với Hiến pháp. Điểm khác nữa là giải thích luật là để hiện thực hóa ý chí của cơ quan lập pháp trong thông qua giải thích Hiến pháp có thể dẫn tới việc phủ nhận mong muốn của nhà lập pháp thể hiện trong những luật bị bác bỏ hoặc bị thay đổi[6]. Tuy nhiên, ở nước ta, giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh đang được thực hiện chung một quy trình và thẩm quyền giải thích Hiến pháp được trao cho duy nhất một chủ thể là Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Điều này là không phù hợp.

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của giải thích pháp luật

Một là, mở rộng phạm vi đối tượng được giải thích. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, đối tượng được giải thích chỉ bao gồm Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng pháp luật, nhiều văn bản dưới luật cũng có những quy định không rõ ràng, thống nhất, gây mâu thuẫn, xung đột trong quá trình áp dụng cần được giải thích. Chính vì vậy, Việt Nam cần sớm nghiên cứu để không chỉ giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh mà còn cả các văn bản pháp luật khác. Đã đến lúc chúng ta cần nhìn nhận lại giá trị của quy định khoản 3 Điều 53 Hiến pháp năm 1959 mà ghi nhận “giải thích pháp luật” thay vì “giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh” như hiện nay.

Hai là, thiết lập một cơ chế riêng cho giải thích Hiến pháp phù hợp với vị trí, vai trò của Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền và phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Theo đó, Quốc hội phải là chủ thể duy nhất có thẩm quyền giải thích Hiến pháp với tư cách là một chủ thể lập hiến. Việc giao Quốc hội giải thích Hiến pháp cũng hoàn toàn phù hợp với truyền thống và nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật Việt Nam cũng như nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Hơn nữa, nó còn bảo đảm tính thứ bậc pháp lý trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền[7]. Về vấn đề nên hay không nên trao thẩm quyền giải thích Hiến pháp cho Tòa án, đã có nhà khoa học cho rằng, việc trao cho hệ thống Tòa án giải thích Hiến pháp trong điều kiện hiện tại là không khả thi bởi: Tổ chức bộ máy của Nhà nước Việt Nam không theo nguyên tắc phân chia quyền lực với mức độ độc lập có khả năng kiềm chế và giám sát lẫn nhau; bản lĩnh của thẩm phán và sự ủng hộ của xã hội có nhận thức cao về pháp luật đối với việc giải thích của thẩm phán là hai trong số những điều kiện cần thiết tối thiểu cho việc giao cho Tòa án giải thích Hiến pháp nhưng hai điều kiện đó khó có thể đảm bảo được trong thời điểm hiện nay ở nước ta; nhìn lại lịch sử lập hiến của đất nước, kể cả trong thời kỳ Hiến pháp 1946, bản Hiến pháp được nhiều học giả coi là có nhiều giá trị dân chủ và lịch sử nhất thì Tòa án chưa bao giờ được giao thẩm quyền giải thích Hiến pháp; Hiến pháp phản ánh rất tập trung nền chính trị, hệ thống pháp luật và tổ chức Tòa án của đất nước. Với hệ thống chính trị, tư pháp như hiện nay, việc giao cho Tòa án giải thích Hiến pháp khó mang lại được những giá trị đích thực. Điều này dễ xảy ra như đối với Tòa án giải thích và áp dụng luật hay văn bản pháp luật khác[8].

Ba là, cần nghiên cứu xây dựng mô hình Tòa án giải thích pháp luật. Đây là xu hướng chung của thế giới và mô hình này cũng khá phù hợp nếu thực hiện tại Việt Nam. Quyền giải thích pháp luật nên trao chủ yếu cho Tòa án, bên cạnh đó cũng thừa nhận phần nào quyền này của cơ quan lập pháp và hành pháp. Tuy nhiên, trước mắt, Hiến pháp nước ta đã quy định quyền giải thích pháp luật thuộc về Ủy ban Thường vụ Quốc hội, do đó, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu nhằm có giải pháp tốt nhất để cơ quan này phát huy, thực hiện quyền một cách thiết thực, hiệu quả.

Theo đó, trước khi xây dựng được mô hình Tòa án giải thích pháp luật thì cần tăng cường hoạt động giải thích pháp luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội bằng cách tạo điều kiện để Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp cận nhanh nhất nhu cầu giải thích pháp luật. Đây là giải pháp vừa giải quyết được tình thế trước mắt, vừa phù hợp với chủ trương, chính sách mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.

Bốn là, cần xem xét công nhận án lệ là nguồn chính thức của pháp luật Việt Nam. Án lệ là một công cụ hữu hiệu cho hoạt động giải thích pháp luật, vì vậy, nếu công nhận án lệ như một nguồn luật ngang bằng với các văn bản quy phạm pháp luật, điều này sẽ tạo một bước ngoặt mới. Hoạt động áp dụng pháp luật sẽ không chỉ căn cứ vào văn bản quy phạm pháp luật mà còn căn cứ vào nguồn án lệ nữa. Ở Việt Nam, chỉ có các văn bản quy phạm pháp luật được Nhà nước ban hành mới được xem là nguồn của pháp luật, còn án lệ chưa được công nhận như một nguồn của pháp luật. Án lệ là sản phẩm của hoạt động tư pháp của Tòa án trong quá trình xét xử. Án lệ là các bản án, quyết định của các thẩm phán tạo lập các quy tắc hoặc căn cứ pháp lý đáng tin cậy cho việc quyết định các vụ việc tương tự trong tương lai. Và án lệ là một công cụ hữu hiệu trong việc giải thích pháp luật trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Giá trị giải thích pháp luật của án lệ là án lệ đã đề cập đến các vụ việc đã xảy ra trong thực tế, chứ không phải là những giả thuyết có tính lý luận về những tình huống có thể xảy ra trong tương lai, nên đã góp phần giải thích, bổ sung những thiếu sót, những lỗ hổng của pháp luật thành văn và khắc phục tình trạng thiếu pháp luật, tạo điều kiện cho việc áp dụng pháp luật dễ dàng, thuận lợi và thống nhất. Tuy chưa công nhận nhưng pháp luật Việt Nam cũng không có quy định phủ nhận án lệ là nguồn luật. Với thực tế 10 án lệ đã được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành và quy định Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao được lựa chọn các quyết định giám đốc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định pháp luật đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của Tòa án để phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu và áp dụng trong xét xử thì án lệ lại đang trở thành nguồn để Tòa án áp dụng giải quyết các vụ việc diễn ra trên thực tế và như vậy, án lệ lại đang là nguồn pháp luật không chính thức.

Năm là, sửa đổi quy định pháp luật để thống nhất về chủ thể có quyền đề nghị giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Theo khoản 1 Điều 49 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 thì Kiểm toán Nhà nước không nằm trong số các chủ thể được đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Trong khi đó, Điều 159 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 lại quy định: “1. Chủ tịch nước, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ quan trung ương của tổ chức thành viên của Mặt trận và đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh. 2. Ủy ban Thường vụ Quốc hội tự mình hoặc theo đề nghị của các cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội quy định tại khoản 1 Điều này quyết định việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh”. Do vậy, cần bổ sung chủ thể là Kiểm toán Nhà nước vào khoản 1 Điều 49 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 để đảm bảo sự phù hợp và thống nhất giữa các luật này.

Sáu là, cần có quy định về cơ chế kiểm soát đối với hoạt động giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Thiếu một cơ chế kiểm soát thích đáng cho hoạt động giải thích pháp luật là nguyên nhân lớn làm cho hoạt động này không phát triển và có nhiều vướng mắc như hiện nay. Trách nhiệm trong giải thích pháp luật không hẳn chỉ theo hướng là những hậu quả bất lợi mà chủ thể giải thích pháp luật nếu có hành vi vi phạm khi giải thích sẽ phải gánh chịu, mà nên tiếp cận rộng hơn, nó còn phải gồm cả trách nhiệm đối với thể chế giải thích pháp luật, cả trách nhiệm đối với việc thiếu một môi trường thuận lợi cho hoạt động này. Cho nên, việc xây dựng cơ chế kiểm soát đối với hoạt động giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh là yêu cầu tất yếu hiện nay, nhằm đảm bảo cho công tác này thật sự công minh và hiệu quả[9].

Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (www.tcdcpl.moj.gov.vn)
[1] TS. Hoàng Văn Tú, Giải thích pháp luật – Một vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn Việt Nam, https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2008/10/12/1821/.
[2] GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, Kiến nghị hoàn thiện chế định giải tích Hiến pháp theo quy định của Hiến pháp năm 2013, tài liệu Hội thảo Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh theo Hiến pháp năm 2013 do Viện Nghiên cứu lập pháp – Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức vào ngày 02/6/2016 tại Hà Nội.
[3] TS. Hoàng Văn Tú, Giải thích pháp luật – Một vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn Việt Nam, https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2008/10/12/1821/.
[4] Những vấn đề đặt ra từ thực tế giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay, http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/120/196.
[5] Những vấn đề đặt ra từ thực tế giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay, http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/120/196.
[6] GS.TS. Lê Hồng Hanh, Khả năng thực hiện việc trao thẩm quyền giải thích Hiến pháp cho Tòa án ở Việt Nam, http://www.luatviet.org/Home/nghien-cuu-trao-doi/2008/7379/Kha-nang-thuc-hien-viec-trao-tham-quyen-giai-thich-Hien-phap.aspx.
[7] TS. Hoàng Văn Tú, Giải thích pháp luật – Một vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn Việt Nam, https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2008/10/12/1821/.
[8] GS.TS. Lê Hồng Hanh, Khả năng thực hiện việc trao thẩm quyền giải thích Hiến pháp cho Tòa án ở Việt Nam, http://www.luatviet.org/Home/nghien-cuu-trao-doi/2008/7379/Kha-nang-thuc-hien-viec-trao-tham-quyen-giai-thich-Hien-phap.aspx.
[9] ThS. Nguyễn Nam Hưng, Một số đề xuất, kiến nghị giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh ở nước ta từ thực tiễn hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, tài liệu Hội thảo Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh theo Hiến pháp năm 2013 do Viện Nghiên cứu lập pháp – Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức vào ngày 02/6/2016 tại Hà Nội.
đánh giá bài viết

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền

Exit mobile version