BLTTHS năm 2015 quy định vai trò, vị trí VKS là rất quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; đặc biệt, giai đoạn điều tra các vụ án hình sự, thông qua công tác kiểm sát có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, đúng người, đúng tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Hiến pháp năm 2013 quy định: Chức năng của VKSND thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Nhiệm vụ của Viện KSND: Bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. BLTTHS năm 2015 quy định vai trò, vị trí VKS là rất quan trọng trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm ngày càng nặng nề hơn; đặc biệt trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự, thông qua công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật, có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án phải đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 đã quy định cụ thể hơn về tố giác tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền. Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng. Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho CQĐT, VKS có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm. BLTTHS năm 2015, từ Điều 145 đến Điều 158 quy định về trách nhiệm tiếp nhận, thẩm quyền giải quyết, thủ tục tiếp nhận, thời hạn và thủ tục giải quyết, tạm đình chỉ, phục hồi, giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố, quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Điều 159, 160 của BLTTHS quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết ngồn tin về tội phạm.
Thông tư liên tịch số 01 ngày 29/12/2017 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, VKSNDTC quy định ngoài CQĐT, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thì VKS các cấp có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố và có trách nhiệm chuyển đến CQĐT có thẩm quyền giải quyết; có trách nhiệm kiểm sát việc phân loại, kiểm sát việc giải quyết tố giác tin báo về tội phạm; có thẩm quyền giải quyết tố giác tin báo về tội phạm trong trường hợp phát hiện CQĐT, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKS đã yêu cầu bằng văn bản nhưng sau 15 ngày kể từ ngày cơ quan thụ lý, giải quyết nhận văn bản yêu cầu mà không được khắc phục.
Với phạm vi chức năng thực hành quyền công tố của VKS trong giai đoạn xác minh giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm việc đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh của KSV là đóng vai trò rất quan trọng và cũng là những quy định bắt buộc của ngành KSND. Khoản 2, Điều 159 BLTTHS quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hành quyền công tố trong việc giải quyết nguồn tin về tội phạm có quy định: “Khi cần thiết, đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm thực hiện”. Trên cơ sở quy định của BLTTHS, Thông tư liên tịch số 01 ngày 29/12/2017, việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là rất quan trọng và kịp thời với yêu cầu của thực tiễn. Phạm vi bài viết này đề cập, trao đổi đến một số kinh nghiệm và giải pháp nâng cao hiệu quả và chống oan, sai từ giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
1. Ý nghĩa của công tác tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là nhằm bảo đảm tất cả các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đều phải được tiếp nhận đầy đủ, kiểm tra, xác minh, xử lý kịp thời; không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật trong công tác này phải được phát hiện, khắc phục và xử lý; việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2015 đòi hỏi vai trò của VKS là rất quan trọng, là cơ quan đảm bảo việc tố giác của công dân, cơ quan, tổ chức được thực hiện theo quy định của pháp luật. VKS khi thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố được thực hiện theo quy định tại Điều 159, Điều 160 BLTTHS. Khi được phân công thụ lý, KSV, KTV có trách nhiệm lập hồ sơ kiểm sát, quản lý hồ sơ vụ việc và thực hiện các hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ, tài liệu thu thập được phải đưa vào hồ sơ vụ việc và lưu hồ sơ kiểm sát. Việc lập hồ sơ phải bảo đảm đúng thể thức văn bản, tài liệu và phải được thống kê, đóng dấu bút lục theo quy định tại khoản 5, Điều 88 của BLTTHS. Kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ tài liệu phải xác định được ai là người tố giác? Ai là người báo tin? Ai là người kiến nghị khởi tố? Người tố giác, báo tin bằng lời nói hay văn bản? Cơ quan nào tiếp nhận? Thủ tục tiếp nhận có đúng quy định không? CQĐT, cơ quan được giao một số hoạt động điều tra đã xác minh được những nội dung gì? Tất cả những người tố giác, báo tin, người bị tố giác, báo tin phạm tội, hoặc kiến nghị khởi tố, người biết sự việc hoặc biết người tố giác báo tin…người tham gia tố tụng đều phải ghi lời trình bày, lời khai và lập biên bản theo quy định tại Điều 133 BLTTHS.
2. Về thẩm quyền giải quyết: Để tránh việc vi phạm tố tụng trong thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố. BLTTHS năm 2003 quy định về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm còn có nhiều vụ việc chung chung, chưa rõ ràng nên Giám đốc Công an hoặc Thủ trưởng CQĐT Công an cấp tỉnh phân công giải quyết theo dựa trên số lượng vụ việc, có lúc theo cảm tính chủ quan dẫn đến việc không thống nhất về thẩm quyền giải quyết giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. BLTTHS năm 2015 đã khắc phục hạn chế này, do vậy VKS phải quản lý và kiểm sát chặt chẽ về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố được quy định tại điểm a b, khoản 3, Điều 145 BLTTHS: “CQĐT giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo thẩm quyền điều tra của mình”; “Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo thẩm quyền điều tra của mình”. Riêng đối với Cơ quan An ninh điều tra cấp tỉnh về thẩm quyền giải quyết tố giác tin báo, ngoài thẩm quyền quy định của BLTTHS thì còn phải kiểm sát về thẩm quyền giải quyết tố giác tin báo thì Cơ quan An ninh điều tra được xác minh, giải quyết tố giác, tin báo khác theo sự phân công của Bộ trưởng Bộ Công an (Điều 17 của Luật tổ chức điều tra hình sự là để đảm bảo khách quan theo sự phân công phải được Bộ trưởng Bộ Công an). Đối với trường hợp CQĐT thụ lý giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm không đúng thẩm quyền, VKS phải kịp thời ban hành yêu cầu chuyển nguồn tin về tội phạm đến CQĐT có thẩm quyền giải quyết và yêu cầu này CQĐT phải có trách nhiệm thực hiện.
3. Về hoạt động thu thập chứng cứ, tài liệu giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT, Điều tra viên được thực hiện tuân thủ theo quy định của pháp luật hay không thì vai trò của VKS là vô cùng quan trọng. VKS là cơ quan duy nhất được pháp luật giao cho nhiệm vụ này. Do vậy, yêu cầu xác minh là một trong những quyền công tố của VKS định hướng cho CQĐT trong suốt quá trình xác minh giải quyết tố giác, tin báo; đồng thời yêu cầu xác minh cũng thể hiện phản ánh trình độ, năng lực của KSV. Kiểm sát viên phải đánh giá được việc thu thập chứng cứ dựa trên các nguồn là vật chứng, lời khai, lời trình bày, dữ liệu điện tử, kết luận giám định, định giá tài sản, biên bản hoạt động điều tra, các tài liệu đồ vật khác; khi thu thập đánh chứng cứ phải đảm bảo ba nguyên tắc là tính hợp pháp, tính xác thực và liên quan đến vụ án. Yêu cầu xác minh thu thập chứng cứ phải bám sát vào các yếu tố cấu thành tội phạm, như tố giác tội phạm về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì phải thu thập các chứng cứ chứng minh hành vi gian dối thông qua các thủ đoạn như lời nói, đưa ra các tài liệu không có thực hoặc hợp đồng giả cách để chủ sở hữu tài sản tưởng là thật và giao tài sản có giá trị từ hai triệu đồng trở lên; hoặc tố giác về hành vi vi phạm các quy định về sử dụng đất đai yêu cầu xác minh phải thể hiện cho được thu thập chứng cứ xác định hành vi lấn chiếm đất hoặc hành vi chuyển quyền sử dụng đất trái với các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai, hành vi đã xâm hại đến trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực sử dụng đất đai; chứng minh nhân thân người đó đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này chưa được xóa án tích. CQĐT phải có trách nhiệm thực hiện yêu cầu xác minh của KSV, chứng cứ thu thập được phải được thực hiện theo quy định tại khoản 5 Điều 88 BLTTHS; đối với tài liệu KSV không trực tiếp kiểm sát thì trong thời hạn 05 ngày phải chuyển cho VKS để kiểm sát tài liệu, do trở ngại khách quan thì không quá 15 ngày. Trước khi CQĐT thống nhất với VKS ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can thì KSV cần phải trực tiếp tiến hành kiểm sát việc ghi lời khai của ĐTV để đảm bảo tính khách quan của lời khai và là căn cứ trước khi quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can. Quá trình kiểm sát giải quyết tin báo, KSV phải tôn trọng nguyên tắc suy đoán vô tội, không được sử dụng lời khai nhận duy nhất để làm căn cứ kết luận.
Trong quá trình xác minh, thu thập chứng cứ trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, có trường hợp phải áp dụng biện pháp ngăn chặn. Đối với trường hợp áp dụng biện pháp ngăn chặn là bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp (Điều 110) thì việc thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải chấp hành quy định tại khoản 2 Điều 113: “Khi tiến hành bắt người tại nơi cư trú phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó làm việc, học tập phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó học tập, làm việc chứng kiến. Khi bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt”. Điều 115 quy định “Người thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, thi hành lệnh hoặc quyết định bắt người trong mọi trường hợp đều phải lập biên bản”. Như vậy, BLTTHS quy định khi bắt người chỉ được thực hiện ở 03 địa điểm:
Một là bắt người tại nơi người đó cư trú;
Hai là bắt người tại nơi người đó làm việc, học tập;
Ba là bắt người tại nơi khác.
Trong thực tiễn áp dụng BLTTHS năm 2015, đối với trường hợp bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp còn có nhiều vướng mắc và có nhiều cách hiểu khác nhau. Bởi lẽ theo quy định của khoản 4, Điều 110 BLTTHS thì: Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, CQĐT phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, phải gửi ngay cho VKS cùng cấp kèm theo tài liệu liên quan để xét phê chuẩn. Như vậy, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp chỉ được thi hành khi đã có phê chuẩn của VKS, trong khi đó người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đã được giao cho cơ sở giam giữ (cấp huyện là Nhà tạm giữ, cấp tỉnh là Trại tạm giam) quản lý theo quy định của pháp luật, do đó việc thi hành lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đều được thực hiện tại cơ sở giam giữ thuộc trường hợp thứ ba “bắt người tại nơi khác” theo quy định của khoản 2 Điều 113 BLTTHS thì phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt.
Từ những quy định của pháp luật chưa cụ thể dẫn đến khi áp dụng thực hiện có quan điểm cho rằng sau khi VKS phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì CQĐT phải dẫn giải đối tượng đến chính quyền xã, phường, thị trấn nơi cơ sở giam giữ đóng trên địa bàn để thi hành lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng việc thi hành lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp khi đối tượng đã được giao cho cơ sở giam giữ quản lý thì không cần thiết phải dẫn đến chính quyền xã, phường, thị trấn nơi cơ sở giam giữ đóng trên địa bàn để thi hành lệnh bắt mà lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp được thực hiện ngay tại cơ sở giam giữ và có sự chứng kiến của cán bộ cơ sở giam giữ là đủ. Đây là vướng mắc của pháp luật chưa dự báo được hết tình huống xảy ra trên thực tiễn khi áp dụng quy định của BLTTHS. Trong khi chưa có hướng dẫn của liên ngành TW về vấn đề người chứng kiến trong việc thi hành lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an có Công văn số 2000 ngày 12/6/2018 tạm thời hướng dẫn để kịp thời tháo gỡ khó khăn vướng mắc.
4. Một số giải pháp cơ bản: Để đảm bảo việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đạt kết quả, hạn chế việc khởi tố không có căn cứ pháp luật, chống oan sai thì cần phải thực hiện các giải pháp sau:
Một là, công tác cán bộ phải coi đây là công tác then chốt, con người là tất cả của mọi vấn đề; công tác tổ chức phải có tính ổn định lâu dài, có chính sách đào tạo KSV theo hướng trở thành chuyên gia giỏi. KSV được phân công thụ lý giải quyết phải là người có tâm huyết, trách nhiệm với công việc được giao; có lòng tự trọng nghề nghiệp, thường xuyên học hỏi nâng cao kiến thức nghiệp vụ và tuân thủ quy định của pháp luật.
Hai là, công tác tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm phải được thực hiện là một nhiệm vụ trực nghiệp vụ, phân loại 24/24 giờ, địa điểm tiếp nhận ở nơi thuận tiện, có biển ghi tên cơ quan và thông báo rộng rãi trên thông tin đại chúng. Tạo điều kiện thuận lợi để các nhân hoặc tổ chức trực tiếp đến tố giác về tội phạm.
Ba là, công tác phân loại tố giác, tin báo về tội phạm phải được thực hiện ngay sau khi CQĐT tiếp nhận, việc phân loại phải có sự thống nhất của VKS. Trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết thì trong thời hạn 03 ngày CQĐT phải thụ lý giải quyết và thông báo bằng văn bản đến VKS có thẩm quyền. Trường hợp không thuộc thẩm quyền giải quyết thì phải chuyển ngay đến cơ quan có thẩm quyền xác minh giải quyết bằng hình thức nhanh nhất. Trường hợp tố giác, tin báo về tội phạm đã rõ dấu hiệu tội phạm thì ra quyết định khởi tố và tiến hành điều tra theo quy định của Bội luật TTHS.
Bốn là, hoạt động thu thập chứng cứ phải tôn trọng sự thật và tình khách quan, thu thập chứng cứ phải dựa trên các nguồn chứng cứ vật chứng, lời khai, dữ liệu điện tử, kết luận giám định, định giá tài sản, biên bản hoạt động điều tra, các tiều liệu đồ vật khác. Khi thu thập, đánh giá các chứng cứ phải đảm bảo ba nguyên tắc là tính hợp pháp, tính xác thực và tính liên quan đến vụ án. ĐTV và KSV thường xuyên trao đổi và thống nhất định hướng điều tra thu thập chứng cứ. KSV phải tăng cường vai trò công tố trong hoạt động điều tra thu thập chứng cứ; trực tiếp kiểm sát việc ghi lời khai các đối tượng liên quan trước khi khởi tố vụ án; trực tiếp hỏi cung bị can trước khi phê chuẩn khởi tố bị can.
Năm là, liên ngành Trung ương VKSNDTC, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng sớm có văn bản hướng dẫn thực hiện việc thi hành lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.
Sáu là, thường xuyên rút kinh nghiệm, kịp thời đưa ra biện pháp khắc phục những thiếu sót, tồn tại; đồng thời biểu dương và phổ biến phương pháp làm việc có hiệu quả thông qua việc giải quyết các vụ án cụ thể.
Tác giả đã đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác kiểm sát xác minh giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đồng thời góp phần trong việc chống oan sai khi khởi tố. Rất mong được bổ sung, đóng góp của đồng nghiệp và bạn đọc.
Đỗ Minh Tuấn – VKSND thành phố Hà Nội
Nguồn: Tạp chí Kiểm sát (http://kiemsat.vn/giai-phap-nang-cao-chat-luong-giai-quyet-to-giac-tin-bao-ve-toi-pham-va-chong-oan-sai-51064.html)
Để lại một phản hồi Hủy