Site icon Hocluat.VN

Trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương

Tóm tắt: Trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương là một vấn đề mới được đề cập ở nước ta. Đại hội lần thứ XII của Đảng khẳng định: Trách nhiệm giải trình của các cấp chính quyền chưa được quy đinh rõ ràng, còn nhiều hạn chế[1], và xác định nhiệm vụ: bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm giải trình[2]. Bài viết tập trung luận giải một số khía cạnh lý luận, pháp lý và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương.

 

Abstract: Accountability of the local government is a matter that has just been mentioned in our country. 12th National Congress of the Communist Party of Vietnam affirmed: The accountability of the administration at all levels has not been clearly defined, there ware many shortcomings, and it defined the tasks: ensuring democracy, publicity, transparency and enhancing their accountability. This article is focused on clarifying theoretical and legal aspects and finding out solutions for further improvement of the law on accountability of the local government.

 

Trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương

Mục lục:

  1. Khái niệm, đặc điểm trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương
  2. Nội dung, phương thức giải trình của chính quyền địa phương
  3. Quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương
Ảnh minh họa: Nguồn internet

1. Khái niệm, đặc điểm trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương

a) Trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương là gì?

Trách nhiệm giải trình (TNGT) là thuật ngữ được tiếp cận theo nhiều phương diện khác nhau. Về nguồn gốc, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, khái niệm trách nhiệm giải trình có nguồn gốc từ tiếng Anglo – Norman, ban đầu rất gần với thuật ngữ “accounting” với nghĩa là sổ sách kế toán “bookkeeping”. Trải qua nhiều thế kỷ, thuật ngữ này được coi là cơ sở của hệ thống quản lý công bằng, vô tư khách quan, không chỉ là trách nhiệm của người dân đối với hoàng gia hay đối với nhà nước mà ngược lại, nhà nước cũng có trách nhiệm với dân chúng. Đến những năm 80 của thế kỷ XX, cùng với làn sóng quản lý công mới từ nước Anh, thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu và thực hành quản trị tốt. Chính vì lý do ngôn ngữ này nên tồn tại rất nhiều cách hiểu về trách nhiệm giải trình[3]. Dưới góc độ quản trị tốt, khái niệm trách nhiệm giải trình gồm 02 thành tố: khả năng giải đáp, là việc yêu cầu các công chức phải có khả năng giải đáp theo định kỳ những vấn đề liên quan đến việc họ đã sử dụng thẩm quyền của mình như thế nào, những nguồn lực được sử dụng vào đâu, với các nguồn lực đó đã đạt được kết quả gì và việc chịu trách nhiệm hậu quả xảy ra, đó là nhu cầu về việc phải dự đoán được những hậu quả. Báo cáo chỉ số quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) năm 2011 đã đưa ra khái niệm về trách nhiệm giải trình. Theo đó, trách nhiệm giải trình là một khái niệm có những cách diễn giải và dịch thuật khác nhau, và rất khó để khẳng định xem nó được thực thi như thế nào? Nói ngắn gọn, khái niệm trách nhiệm giải trình cơ bản là đảm bảo cho người dân, nhà nước và các tổ chức ngoài nhà nước có cả khung pháp lý lẫn khả năng buộc các cơ quan và cán bộ nhà nước phải giải trình về những gì họ làm hoặc không làm khi thực thi chức năng, nhiệm vụ của mình[4]. Khi xem xét trách nhiệm giải trình là một hoạt động của nhà nước, đa số các nhà nghiên cứu cho rằng: trách nhiệm giải trình là việc cơ quan nhà nước cung cấp, giải thích, làm rõ các thông tin về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và chịu trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó[5]. Như vậy, trách nhiệm giải trình có thể được thực hiện bởi các cơ quan lập pháp, cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp. Ở Việt Nam, dưới góc độ phòng chống tham nhũng, trách nhiệm giải trình được xem là việc các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền chủ động hoặc theo yêu cầu thực hiện cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời về quyền, nghĩa vụ, về quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao và trách nhiệm của mình đối với kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ đó trước người dân, xã hội và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

Những phân tích nêu trên cho thấy, trách nhiệm giải trình thể hiện hai phương diện cơ bản: Một là trách nhiệm báo cáo, trình bày, cung cấp, giải thích một vấn đề/nội dung nào đó thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của một chủ thể nhất định. Trách nhiệm này có thể do chủ thể giải trình chủ động thực hiện hoặc khi có yêu cầu của chủ thể có thẩm quyền yêu cầu giải trình. Hai là việc xác định trách nhiệm của chủ thể đối với vấn đề/nội dung đã báo cáo, trình bày, cung cấp giải thích thuộc nhiệm vụ, thẩm quyền. Hai phương diện này thống nhất trong một chỉnh thể, không thể xem xét một cách biệt lập, bởi lẽ, trách nhiệm giải trình phải là sự kết hợp giữa hai yếu tố: sự giải trình và sự chịu trách nhiệm. Việc chịu trách nhiệm phải dựa trên những căn cứ nhất định – chủ thể chịu trách nhiệm phải giải trình, ngược lại, chỉ giải trình mà không chịu trách nhiệm hoặc không kèm theo chế tài nào thì sự giải trình đó không còn đầy đủ ý nghĩa.

Chính quyền địa phương (CQĐP) là khái niệm còn có những cách hiểu khác nhau, phổ quát nhất có thể hiểu, chính quyền địa phương là thuật ngữ được sử dụng để chỉ những thiết chế nhà nước, có tư cách quyền lực công, được thành lập để quản lý điều hành mọi mặt đời sống, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trên một đơn vị hành chính – lãnh thổ của một quốc gia. Như vậy, có thể hiểu, chính quyền địa phương là một bộ phận hợp thành của chính quyền nhà nước thống nhất, bao gồm hệ thống cơ quan đại diện và cơ quan hành chính được thành lập ra để thực hiện chức năng quản lý trong một phạm vi địa giới hành chính lãnh thổ nhất định. 

Cũng như bất cứ cơ quan nhà nước nào, các cơ quan của chính quyền địa phương có trách nhiệm giải trình. Trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương là trách nhiệm của các cơ quan công quyền ở địa phương trong việc thực hiện nghĩa vụ cung cấp, giải thích, làm rõ các thông tin về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và chịu hệ quả pháp lý về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó.

b) Đặc điểm trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương

Theo chúng tôi, trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương có các đặc điểm sau:

i) Chủ thể thực hiện là các cơ quan nhà nước ở địa phương được giao những nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật. Đó là cơ quan dân cử và cơ quan hành chính ở địa phương. Chủ thể thực hiện giải trình có thể là người đứng đầu cơ quan dân cử, cơ quan hành chính, hay người đại diện cho các cơ quan nhà nước ở địa phương. Trong trường hợp cụ thể, có thể là cá nhân trong tổ chức liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

ii) Chủ thể yêu cầu chính quyền địa phương thực hiện việc giải trình rất đa dạng. Đó có thể là cơ quan nhà nước cấp trên, cơ quan nhà nước cùng cấp, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội, cơ quan tư pháp, cơ quan truyền thông đại chúng, người dân địa phương…

iii) Nội dung giải trình liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao, thực chất là việc tổ chức thực hiện và kết quả thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền đã được pháp luật quy định.

iv) Trách nhiệm giải trình được thực hiện thông qua nhiều phương thức khác nhau: cung cấp thông tin, giải thích, báo cáo, trả lời chất vấn, giám sát, giải trình, thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, đối thoại, họp báo…Tùy thuộc vào phương thức giải trình mà chính quyền địa phương giải trình theo cách thức khác nhau.

2. Nội dung, phương thức giải trình của chính quyền địa phương

a) Nội dung giải trình:

Trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương tập trung vào việc thực thi nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của chính quyền địa phương được pháp luật quy định, ngoại trừ các nội dung có liên quan đến bí mật quốc gia hoặc những trường hợp không thuộc phạm vi giải trình. Tương ứng với từng nội dung giải trình, chủ thể giải trình và chủ thể yêu cầu giải trình có các quyền và nghĩa vụ khác nhau. Nội dung giải trình của chính quyền địa phương ở các quốc gia là khác nhau, vì nó phụ thuộc vào cách thức tổ chức quyền lực nhà nước ở địa phương, nguyên tắc phân định thẩm quyền được áp dụng…và sự cụ thể hóa của pháp luật. Đối với Việt Nam, nội dung giải trình của chính quyền địa phương là những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền được pháp luật quy định, ngoài ra, còn phải giải trình về nguồn gốc tài sản, thu nhập xuất phát từ yêu cầu của công tác phòng, chống tham nhũng. Trọng tâm nội dung giải trình của chính quyền địa phương là việc tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định (Khoản 1, Điều 112 Hiến pháp năm 2013). Thực tiễn cho thấy, ở hầu hết các quốc gia, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ngày càng được mở rộng, tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tự quản ngày càng cao, do đó, chính quyền địa phương và cá nhân có thẩm quyền phải thực hiện trách nhiệm giải trình đối với các nội dung thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình là yêu cầu cấp thiết luôn được đặt ra. Sự thay đổi về nội dung giải trình của chính quyền địa phương, cùng với xu hướng dân chủ hóa trong xã hội ngày càng cao…đòi hỏi cơ chế thực hiện trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương cần có cách tiếp cận mới, theo đó, tăng cường trách nhiệm giải trình đối với các chủ thể bên ngoài, đặc biệt là đối với Nhân dân cần được xác lập một cách khoa học hơn.

b) Phương thức giải trình:

Ứng với các kênh giải trình khác nhau sẽ hình thành các phương thức giải trình tương ứng, các phương thức giải trình của chính quyền địa phương rất đa dạng và có mối quan hệ chặt chẽ với hoạt động của chính quyền địa phương trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định. Đa số các quốc gia đều xem trách nhiệm giải trình gắn liền với quyền của công dân được cung cấp thông tin về hoạt động của các cơ quan nhà nước. Do đó, hầu hết các quốc gia đều khẳng định quyền này của công dân trong Hiến pháp và cụ thể hóa nó bằng các văn bản luật. Ví dụ như Luật về quyền tiếp cận thông tin, Luật thủ tục hành chính (Nhật Bản, Canada, Thụy Điển, New Zealand), Luật tự do thông tin (Hoa Kỳ)[6]…

3. Quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương

Nhìn tổng thể, các quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương luôn có sự kế thừa và vận động theo hướng ngày càng được quy định rõ ràng hơn. Hiện nay, cơ sở pháp lý về trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau, tập trung chủ yếu vào các văn bản như: Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2018), Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Luật Tiếp công dân năm 2013, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016…và một số văn bản dưới luật như: Nghị định số 90/2013/NĐ-CP, Thông tư 02/2014/TTCP quy định chi tiết, hướng dẫn một số điều của Nghị định số 90/2013/NĐ-CP…Nội dung của các văn bản nêu trên cho thấy, quy định của pháp luật về trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương đã có bước phát triển mới, xác định rõ hơn về nội dung, phương thức, chủ thể giải trình. Các quy định này đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để chính quyền địa phương thực hiện giải trình có trách nhiệm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao, là công cụ pháp lý quan trọng tăng cường sự giám sát của người dân đối với các cơ quan nhà nước ở địa phương.

Bên cạnh đó, các quy định của pháp luật về trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương hiện nay còn có những hạn chế, bất cập sau đây:

i) Các quy định của pháp luật chủ yếu hướng đến việc xem trách nhiệm giải trình là trách nhiệm giải thích việc thực thi nhiệm vụ, công vụ hay các vấn đề liên quan đến trách nhiệm quản lý của mình khi được yêu cầu. Tuy nhiên, trên thực tế, nội dung về trách nhiệm giải trình rộng hơn, không chỉ thực hiện khi có yêu cầu, mà còn được thực hiện ngay cả khi không có yều cầu, nhưng chủ thể thấy đó là việc làm cần thiết để tìm kiếm sự ủng hộ, đồng thuận về những vấn đề đã, đang, sẽ được thực hiện, bảo đảm tính khả thi của các quyết định hay việc làm của mình trên thực tế[7]…Trong một số trường hợp, giải trình không chỉ là trách nhiệm mà còn là quyền của một chủ thể nào đó được phát biểu, nói lên ý kiến, giải thích cho việc làm của mình là đúng đắn, hợp pháp. Do đó, trách nhiệm giải trình trước hết phải dựa trên “nhu cầu” thấy “cần” phải giải thích của cá nhân người có trách nhiệm, không chỉ là thực hiện do quy định của pháp luật[8].

ii) Các quy định hiện hành chủ yếu đề cập và nhấn mạnh đến trách nhiệm tuân thủ các quy định về thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trách nhiệm được giao, trong khi đó, cơ chế thực hiện trách nhiệm giải trình gắn với trách nhiệm thực hiện hiệu quả công việc lại chưa được pháp luật đề cập đến. Trong bối cảnh hiện nay, khi yêu cầu dân chủ trong đời sống xã hội ngày càng cao, sự chủ động tham gia của người dân vào hoạt động quản lý nhà nước ngày càng sâu rộng, trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương cần phải gắn với trách nhiệm thực hiện công việc một cách có hiệu quả, thỏa mãn ngày càng tốt hơn sự hài lòng của người dân.

iii) trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương được quy định tản mạn trong nhiều văn bản luật và dưới luật khác nhau, điều này đã tạo khó khăn trong quá trình nhận thức, năm bắt các quy định của pháp luật về trách nhiệm giải trình đối với các chủ thể, đặc biệt là quá trình tổ chức thực hiện và xác định trách nhiệm của các bên.

iv) Quy định của pháp luật về trách nhiệm giải trình đối với người đứng đầu các cơ quan của chính quyền địa phương chưa đầy đủ, rõ ràng; phạm vi chủ thể thực hiện trách nhiệm giải trình còn hẹp, chưa xác định rõ trách nhiệm giải trình cá nhân; phương thức giải trình chưa phong phú, chủ yếu giải trình trong nội bộ chính quyền địa phương và giải trình đối với cấp trên, trách nhiệm giải trình đối với người dân chưa được chú trọng; hệ quả pháp lý của giải trình chưa rõ ràng, mang tính dẫn chiếu …

Để khắc phục hạn chế, bất cập nêu trên, chúng tôi đề xuất một số giải pháp sau:

i) Hoàn thiện các quy định trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.

– Khoản 1 và khoản 2 Điều 112 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận thẩm quyền riêng của địa phương. Đây là thẩm quyền riêng biệt, độc lập so với thẩm quyền của các cơ quan nhà nước cấp trên và thừa nhận khả năng phân cấp, phân quyền cho mỗi địa phương[9]. Tuy nhiên, các quy định về phân quyền, phân cấp, ủy quyền trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 mới dừng lại quy định ở nguyên tắc chung, cần tiếp tục được cụ thể hóa, theo đó: Nghiên cứu sửa đổi điểm c, khoản 2, Điều 11 về thẩm quyền giải quyết vấn đề phân quyền thuộc phạm vi từ hai đơn vị hành chính trở lên. Bởi lẽ, khoản 1 Điều 12 của Luật đã quy định việc phân quyền cho mỗi cấp chính quyền địa phương phải được quy định trong các luật, nên chính quyền địa phương không có thẩm quyền giải quyết vấn đề này, chỉ luật mới có thể xác định và thay đổi thẩm quyền đã được phân quyền, nếu không quy định rõ vấn đề này sẽ dẫn đến mâu thuẫn trong chính các quy định của Luật;

– Sửa đổi, bổ sung Điều 11 của Luật theo hướng quy định rõ việc đảm bảo các nguồn lực của cấp trên để chính quyền địa phương thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được phân quyền, phân cấp, cơ chế kiểm tra, giám sát, trách nhiệm giải trình trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó;

– Sửa đổi, bổ sung Điều 12 của Luật theo hướng quy định cụ thể các nguyên tắc khi phân quyền cho mỗi cấp chính quyền địa phương. Mặc dù, khoản 4 Điều 12 của Luật có quy định phải bảo đảm các nguyên tắc quy định tại khoản 2 Điều 11 của Luật nhưng các quy định này còn rất chung và quy định cụ thể các nhiệm vụ, quyền hạn mà chính quyền địa phương được phân quyền có được phân cấp hay ủy quyền cho chính quyền địa phương cấp dưới và cơ quan, tổ chức khác không;

– Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 14 của Luật theo hướng: làm rõ “trường hợp cần thiết” cơ quan hành chính nhà nước cấp trên có thể ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp dưới hoặc cơ quan, tổ chức khác là trường hợp nào, các cơ quan, tổ chức khác được cơ quan hành chính nhà nước cấp trên ủy quyền là những cơ quan nào;

– Sửa đổi khoản 4, Điều 104 của Luật theo hướng quy định cụ thể về giải trình tại phiên họp Thường trực Hội đồng nhân dân trên các nội dung: quyết định vấn đề cần phải giải trình, trách nhiệm của chủ thể được yêu cầu giải trình, trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan trước, trong và sau khi giải trình, trình tự thủ tục thực hiện, hình thức văn bản về kết luận phiên giải trình, hệ quả pháp lý…;

– Sửa đổi, bổ sung Điều 18, Điều 25, Điều 32, Điều 39, Điều 46, Điều 53, Điều 60 và Điều 67 của Luật theo hướng quy định số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân chuyên trách theo tỷ lệ % trên tổng số đại biểu của từng cấp Hội đồng nhân dân, tăng số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách tại các Ban của Hội đồng nhân dân các cấp;

– Sửa đổi điểm c, khoản 4, Điều 87 của Luật theo hướng quy định rõ hơn thế nào là trường hợp cần thiết khi HĐND ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn, đặc biệt là quy định chế tài đối với người bị chất vấn và những người có liên quan đến nội dung chất vấn trong việc không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ các kết luận tại phiên chất vấn hoặc đã nêu ra trong Nghị quyết;

– Bổ sung quy định về việc HĐND phải đảm bảo số lượng thời gian họp chất vấn phù hợp (có thể không dưới 1/3 tổng số thời gian của kỳ họp HĐND). Bên cạnh đó, tiếp tục hoàn thiện các quy định trong Nghị quyết số 85/2014/QH13 ngày 28/11/2014 về lấy phiếu tín nhiệm đối với một số chức danh do Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn, theo đó, chỉ nên đặt ra việc lấy phiếu tín nhiệm khi có “vấn đề” mà không phải theo định kỳ, thông qua đó đánh giá mức độ tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.

ii) Hoàn thiện Luật tiếp cận thông tin

– Sửa đổi khoản 1 và khoản 3 Điều 18 của Luật theo hướng quy định rõ các hình thức cung cấp thông tin đối với người khuyết tật. Bởi lẽ, mặc dù Điều 3 Nghị định số 13/2018 đã quy định. Tuy nhiên, Luật và Nghị định mới tiếp cận ở khía cạnh chung của người khuyết tật, mà chưa tiếp cận ở góc độ dạng tật của người khuyết tật như: khuyết tật vận động, khuyết tật nghe, nói, khuyết tật nhìn, khuyết tật thần kinh, tâm thần, khuyết tật trí tuệ, khuyết tật khác và có 03 mức độ khuyết tật: người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật nặng và người khuyết tật nhẹ, đối với mỗi đối tượng cần có hình thức tiếp cận thông tin phù hợp và được pháp luật quy định cụ thể.

iii) Hoàn thiện Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

– Sửa đổi Điều 30 của Luật theo hướng bổ sung quy định về trách nhiệm, cũng như chế tài đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc xem xét, tiếp thu, giải quyết kiến nghị sau giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;

– Sửa đổi khoản 3 Điều 36 của Luật theo hướng bổ sung quy định về trách nhiệm đối với cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo dự thảo văn bản được phản biện về việc tiếp thu ý kiến phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đặc biệt bổ sung chế tài đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc tiếp thu, xử lý các ý kiến phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, sau phản biện các chủ thể có thể tiếp thu hoặc không tiếp thu, nhưng cần có cơ sở để công khai cho nhân dân biết tại sao lại có cách xử lý như vậy.

iv) Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 90/NĐ-CP về trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước trong thi nhiệm vụ, quyền hạn được giao

– Sửa đổi Điều 1 của Nghị định theo hướng mở rộng phạm vi trách nhiệm giải trình, không chỉ thực hiện khi có yêu cầu mà còn được thực hiện khi các chủ thể thấy cần thiết, dựa trên nhu cầu;

– Sửa đổi khoản 1 Điều 2 của Nghị định về chủ thể thực hiện giải trình theo hướng không giới hạn là cơ quan hành chính nhà nước mà các cơ quan nhà nước khác, kể cả cơ quan hưởng lương từ ngân sách nhà nước cũng cần thực hiện việc giải trình;

– Sửa đổi khoản 3, Điều 3 của Nghị định theo hướng bổ sung trách nhiệm giải trình đối với nhóm chủ thể là cán bộ, công chức, người có thẩm quyền quản lý mà việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ liên quan trực tiếp đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Sửa đổi này phù hợp với quy định về trách nhiệm giải trình trong các văn bản pháp luật khác như: Luật phòng, chống tham nhũng, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân…;

– Sửa đổi khoản 2 Điều 6 của Nghị định theo hướng không quy định, nội dung yêu cầu giải trình liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân có yêu cầu giải trình. Bởi lẽ, quy định này dẫn đến những nội dung thuộc lợi ích của cộng đồng khó xác định được người yêu cầu giải trình hay chứng mình được có liên quan trực tiếp đến lợi ích của một cá nhân;

– Bổ sung quy định về trách nhiệm phối hợp trong việc giải trình các nội dung liên quan đến nhiều cơ quan, giám sát đối với việc thực hiện trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước, các chế tài khi chủ thể vi phạm trong thực hiện trách nhiệm giải trình theo quy định.

Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật nêu trên sẽ góp phần tăng cường trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương trong thời gian đến, đây cũng là đòi hỏi chính đáng của Nhân dân – chủ thể cơ bản mà chính quyền địa phương phải thực hiện trách nhiệm giải trình.

Tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Thị Quế Anh, Vũ Công giao, Nguyễn Hoàng Anh (2018), Các lý thuyết, mô hình, cách tiếp cận về quản trị nhà nước và phòng, chống tham nhũng, Nxb., Hồng Đức.

2. Jairo Acunã-Alfaro và Đỗ Thanh Huyền (2014), Công khai, minh bạch và giải trình: Vai trò của chính quyền địa phương? Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 19.

3. Ngân hàng thế giới và các nhà tài trợ, Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2010: Các thể chế hiện đại.

4. Ngân hàng thế giới, Bộ Kế hoạch và đầu tư (2017), Báo cáo Việt Nam 2035 hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ.

5. Quản trị nhà nước hiện đại: Những vấn đề lý luận, thực tiễn, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, tháng 7/2017.

6. S. Chiavo – Campo và P.S.A. Sundaram (2003), Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành chính công trong một thế giới cạnh tranh của, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

HÀ NGỌC ANH

Học viện Chính trị khu vực III

Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 20 (396), tháng 10/2019


[1] Văn phòng trung ương Đảng, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII, tr. 243.

[2] Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Nghị quyết số 18-NQ/TW “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, tr. 1.

[3] Bùi Phương Đình(2017), Trách nhiệm giải trình trong phòng chống tham nhũng – Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở cho Việt Nam, Tạp chí Thông tin khoa học lý luận chính trị số 3

[4] Báo cáo chỉ số quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) năm 2011, tr. 32.

[5] Vũ Công Giao, Nguyễn Hoàng Anh, Đặng Minh Tuấn, Nguyễn Minh Tuấn (Đồng chủ biên), (2017), Quản trị tốt lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 185.

[6] Nguyễn Đăng Dung (2014), Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về thực hiện trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước, Báo cáo tập hợp chuyên đề đề tài khoa học cấp Bộ, Trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Viện khoa học pháp lý – Bộ tư pháp.

[7] Đinh Văn Minh (2012), Bàn về trách nhiệm giải trình, http://thanhtra.edu.vn/category, truy cập ngày 12/1/2018.

[8] Lưu Kiếm Anh, Lê Thị Hương (2016), Trách nhiệm giải trình trong khu vực công ở Việt Nam, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 245, tr. 30 -34.

[9] Nguyễn Hoàng Anh (2018), Phân cấp, phân quyền và thực tiễn triển khai theo Hiến pháp năm 2013, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 34, Số 4 (2018) 41-50.

5/5 - (1 bình chọn)

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Nếu cần BQT hỗ trợ gấp, vui lòng liên hệ hotline 1900.0164 bấm phím 0.

1900.0164
Exit mobile version