Dấu hiệu pháp lý của Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ tại BLSH 2015

Chuyên mụcLuật hình sự toi-lam-chet-nguoi-trong-khi-thi-hanh-cong-vu

Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ quy định tại Điều 127 Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tương ứng Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ Điều 97 BLHS 1999.

 

Các nội dung liên quan:

>>> Xem thêm: Các tội xâm phạm tính mạng sức khỏe nhân phẩm danh dự của con người

 

Dấu hiệu pháp lý của Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ

Mục lục:

  1. Khái niệm
  2. Các yếu tố cấu thành tội làm chết người trong khi thi hành công vụ
  3. Hình phạt của Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ

Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)

Điều 127. Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ

1. Người nào trong khi thi hành công vụ mà làm chết người do dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm:

a) Làm chết 02 người trở lên;

b) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai.

3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

1. Làm chết người trong khi thi hành công vụ là gì?

Làm chết người trong khi thi hành công vụ là trường hợp người trong khi thi hành công vụ đã làm chết người do dùng vũ lực ngoài những trường hợp mà pháp luật cho phép.

2. Các yếu tố cấu thành tội làm chết người trong khi thi hành công vụ

2.1. Mặt khách quan

a) Hành vi khách quan

Hành vi khách quan của tội làm chết người trong khi thi hành công vụ là hành vi dùng vũ lực (để thực hiện công vụ) ngoài những trường hợp mà pháp luật cho phép. Thông thường hành vi đó là những hành vi sử dụng vũ khí ngoài những trường hợp mà pháp luật cho phép.

Theo Nghị định số 94/HĐBT ngày 02.7.1984 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), chỉ được nổ súng vào các đối tượng cụ thể sau khi đã có lệnh hoặc bắn cảnh các mà đối tượng vẫn không tuân lệnh, trừ trường hợp đặc biệt cấp bách không có biện pháp nào khác để ngăn chặn ngay đối tượng đang thực hiện hành vi phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng hoặc để thực hiện quyền phòng vệ chính đáng theo luật định. Những đối tượng đó là:

– Những kẻ đang dùng vũ lực gây bạo loạn, đang phá hoại, đang hành hung cán bộ, chiến sĩ bảo vệ, đang tấn công đối tượng hoặc mục tiêu bảo vệ;

– Những kẻ đang phá trại giam, cướp phạm nhân, những phạm nhân đang nổi loạn, cướp vũ khí, phá trại giam hoặc dùng vũ lực uy hiếp tính mạng cán bộ chiến sĩ làm nhiệm vụ
quản lý, canh gác, dẫn giải tội phạm; những kẻ phạm tội nguy hiểm đang bị giam giữ, đang bị dẫn giải hoặc đang có lệnh bắt giữ mà chạy trốn;

– Những kẻ không tuân lệnh của cán bộ, chiến sĩ đang tiến hành tuần tra, canh gác, khám, lại dùng vũ lực chống lại, uy hiếp nghiêm trọng tính mạng của cán bộ thừa hành nhiệm vụ hoặc tính mạng của nhân dân;

– Bọn lưu manh, côn đồ đang giết người, hiếp dâm, gây rối trật tự rất nghiêm trọng; đang dùng vũ lực cướp tài sản xã hội chủ nghĩa hoặc tài sản củ công dân;

– Người điều khiển phương tiện không tuân lệnh, cố tình chạy trốn, khi người kiểm soát phương tiện giao thông vận tải ra lệnh và đã biết rõ trên phương tiện đó có vũ khí hoặc tài liệu phản động, có tài liệu bí mật quốc gia, có tài sản đặc biệt quý giá của Nhà nước, hoặc có bọn phạm tội, có bọn lưu manh, côn đồ đang sử dụng phương tiện để chạy trốn thì được phép bắn hỏng phương tiện để bắt giữ đối tượng (Điều 20 Pháp lệnh về lực lượng cảnh sát nhân dân Việt Nam).

Những hành vi dùng vũ khí ngoài những trường hợp nói trên đều bị coi là hành vi dùng vũ khí ngoài những trường hợp pháp luật cho phép và có thể trở thành hành vi khách quan của tội làm chết người trong khi thi hành công vụ.

b) Hậu quả

Hậu quả của tội làm chết người trong khi thi hành công vụ là hậu quả chết người do hành vi dùng vũ lực ngoài những trường hợp mà pháp luật cho phép nói trên gây ra. Nạn nhân ở đây có thể là người có hành vi trái pháp luật, nhưng cũng có thể là người khác.

c) Mối quan hệ nhân quả 

Quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan (dùng vũ lực ngoài những trường hợp mà pháp luật cho phép) và hậu quả chết người là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Người thi hành công vụ chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về hậu quả chết người đã xảy ra nếu đó là hậu quả của chính những hành vi dùng vũ lực ngoài những trường hợp mà pháp luật cho phép mà họ đã thực hiện.

2.2. Khách thể

Tội phạm này xâm phạm tính mạng của người khác.

2.3. Mặt chủ quan

Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý hoặc vô ý. Động cơ thúc đẩy người phạm tội đã có những hành vi xâm phạm tính mạng người khác trong khi thi hành công vụ là muốn thi hành công vụ vì lợi ích chung.

Như vậy, những hành vi xâm phạm tính mạng người khác do hống hách, coi thường tính mạng của người khác, hoặc do tư thù đều không thuộc phạm vi của tội này.

2.4. Chủ thể

Tội phạm có chủ thể đặc biệt đó là những người đang thi hành công vụ. Người thi hành công vụ là người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình và cũng có thể là những công dân được huy động làm nhiệm vụ (như tuần tra, canh gác… ) theo kế hoạch của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, phục vụ lợi ích chung của Nhà nước, của xã hội. Họ là người do tính chất công việc được giao được phép dùng vũ lực trong những trường hợp nhất định để thực hiện nhiệm vụ của mình. Công dân tự nguyện tham gia vào việc bảo vệ trật tự, trị an (như đuổi bắt người phạm tội) cũng được xem như người thi hành công vụ.

Phân biệt hành vi phạm tội trong trường hợp này (1) với tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (2):

– Trong trường hợp (1), người phạm tội đang thi hành công vụ; trường hợp (2) người phạm tội có thể không đang thi hành công vụ.

– Trong thường hợp (1), nạn nhân có thể đang có hành vi trái pháp luật hoặc không có hành vi trái pháp luật (hành vi trái pháp luật của người thứ ba); trường hợp (2), nạn nhân bắt buộc phải đang có hành vi trái pháp luật.

Có trường hợp, người đang thi hành công vụ mà phát hiện người phạm tội và người phạm tội không bỏ chạy mà có hành vi trái pháp luật kèm theo đối với người thi hành công vụ. Nếu người phạm tội giết nạn nhân trong trường hợp đó thì được xem là giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.

3. Hình phạt của Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ

Hình phạt chia làm 2 khung:

– Giết một người: người phạm tội có thể bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm.

– Giết nhiều người (đều vì lý do công vụ, ngược lại sẽ định thêm tội giết người trong những trường hợp tương ứng): người phạm tội có thể bị phạt tù tư 7 năm đến 15 năm.

Người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm.


Các tìm kiếm liên quan đến Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ, so sánh tội làm chết người trong khi thi hành công vụ và tội vô ý làm chết người, tội làm chết người trong khi thi hành công vụ là tội phạm đòi hỏi phải có dấu hiệu chủ thể đặc biệt, điều 97 bộ luật hình sự, tội vô ý làm chết người blhs 2015, ví dụ về tội vô ý làm chết người, vụ án vô ý làm chết người, so sánh tội giết người với tội vô ý làm chết người

5/5 - (36529 bình chọn)

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền