Tiểu luận: Chứng minh thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý

Chuyên mụcTriết học Chân lý

Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý (thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm nghiệm tính đúng đắn của tri thức) – một trong 04 vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Trong bài viết này, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý nằm ở Mục 3 của Phần I.

..

Những nội dung liên quan:

..

Tiểu luận thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý

Mục lục: (Vui lòng nhấn vào đề mục để chuyển tới phần nội dung cần xem).

LỜI MỞ ĐẦU

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN

1. Một số khái niệm cơ bản

a) Thực tiễn

b) Chân lý

c) Nhận thức

2. Quá trình nhận thức

a) Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng

b) Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn

3. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý

a) Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất của chân lý

b) Chân lý có tính cụ thể, có đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh với một đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể

c) Tiêu chuẩn thực tiễn vừa mang tính tuyệt đối vừa mang tính tương đối.

II. SỰ VẬN DỤNG VÀO ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM

1. Tính cấp thiết của đổi mới thành chủ

2. Những nội dung của công cuộc đổi mới

3. Những thành tựu cơ bản của đổi mới

a) Về nhận thức thì sau 20 năm đổi mới với sự phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân công cuộc đổi mới đã đạt được

b) Về hoạt động thực tiễn

KẾT LUẬN

Ví dụ thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý

thuc-tien

LỜI MỞ ĐẦU

Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề cải tạo thực tiễn nền kinh tế luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng.

Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của bất cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức và thực tiễn, phương pháp biện chứng… luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất phát từ một lập trường triết học đúng đắn, con người có thể có được những cách giải quyết phù hợp với các vấn dề do cuộc sống đặt ra. Việc chấp nhận hay không chấp nhận một lập trường triết học nào đó sẽ không chỉ đơn thuần là sự chấp nhận một thế giới quan nhất định, một cách lý giải nhất định về thế giới, mà còn là sự chấp nhận một cơ sở phương pháp luận nhất định chỉ đạo cho hoạt động.

Chúng ta biết rằng, triết học là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ  nghĩa Mác. Lênin đã chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng đó chính là triết học của chủ nghĩa Mác. Cho đến nay, chỉ có triết học Mác là mang tính ưu việt hơn cả. Trên cơ sở nền tảng triết học Mác – Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học tập và tiếp thu tư tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo chính xác, đúng đắn để xây dựng và phát triển xã hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Mặc dù có những khiếm khuyết không thể tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng trong cải tạo thực tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ các nước trong khu vực và thế  giới về mọi mặt. Chính những thành tựu của xây dựng chủ nghĩa xã hội và qua mười năm đổi mới là minh chứng xác đáng cho vấn đề nêu trên. Hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các quy luật khách quan trong vận hành nền kinh tế ở nước ta là một vấn ềề còn nhiều xem xét và tranh cãi, nhất là trong quá trình đổi mới hiện nay.Vì vậy, em quyết định chọn đề tài “Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý”.

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN

1. Một số khái niệm cơ bản

a) Thực tiễn

– Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận nhận thức, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã tạo nên một bước chuyển biến cách mạng trong triết học nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng và đã đưa ra quan điểm về thực tiễn như sau:

Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất, có mục đích, mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.

– Bản chất của hoạt động thực tiễn đó là sự tác động qua lại của chủ thể và khách thể.

– Hoạt động thực tiễn đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú, song có thể chia ra thành ba hình thức cơ bản là: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.

b) Chân lý

– Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: Chân lý là những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm.

– Chân lý bao giờ cũng là chân lý khách quan tức là những tri thức mà nội dung của nó không phụ thuộc vào con người.

– Chân lý còn có tính tuyệt đối và tính tương đối, tính cụ thể. Chân lý còn là một quá trình vì nhận thức của con người là một quá trình.

c) Nhận thức

– Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào trong đầu óc của con người trên cơ sở thực tiễn.

– Được dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau:

+ Thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập đối với ý thức con người.

+ Thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người, coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể.

+ Khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng tích cực, tự giác và sáng tạo. Quá trình đó diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết, từ hiện tượng đến bản chất, từ biết ít đến biết nhiều, từ kém sâu sắc đến sâu sắc hơn.

+ Coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.

2. Quá trình nhận thức

Nhận thức là một quá trình biện chứng diễn rất phức tạp, bao gồm nhiều giai đoạn, trình độ, vòng khâu và hình thức khác nhau.

– Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi nhận thức không phải là sự phản ánh giản đơn, thụ động, mà là một quá trình gắn liền với hoạt động thực tiễn. Quá trình đó đã được Lênin chỉ ra như sau: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”.

– Tuỳ theo tính chất của sự nghiên cứu mà quá trình đó được phân hoá ra thành các cấp độ khác nhau như: nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận hay nhận thức thông thường và nhận thức khoa học.

Theo Lênin thì quá trình nhận thức trải qua hai khâu sau:

a) Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng.

– Trực quan sinh động hay chính là nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu tiên, gắn liền với thực tiễn và thông qua các giác quan trong đó.

+ Cảm giác là hình thức đầu tiên của sự phản ánh hiện thực khách quan, là sự phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác quan của con người như màu sắc, mùi vị, độ rắn… Sự tác động này gây nên sự kích thích của các tế bào thần kinh làm xuất hiện các cảm giác.

+ Tri giác là hình thành kế tiếp sau cảm giác là hình ảnh tương đối toàn vẹn về sự vật khi sự vật đó đang trực tiếp tác động vào các giác quan. Tri giác nảy sinh dựa trên cơ sở của cảm giác, là sự tổng hợp của nhiều cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức cao hơn, đầy đủ hơn, phong phú hơn về sự vật. Tri giác cũng phản ánh sự vật, hiện tượng một cách trực tiếp thông qua các giác quan.

+ Biểu tượng: là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai đoạn trực quan sinh động. Biểu tượng xuất hiện trên cơ sở những hiểu biết về sự thật do tri thức đem lại. Biểu tượng là hình ảnh về sự vật được lưu giữ trong chủ thể nhận thức khi sự vật không còn hiện diện trực tiếp trước chủ thể. Con người không cần quan sát trực tiếp sự vật mà vẫn hình dung ra chúng dựa trên sự tiếp xúc nhiều lần trước đó. Do đó, ở biểu tượng nhận thức đã chứa đựng những yếu tố gián tiếp. Biểu tượng là khâu trung gian giữa trực quan sinh động và tư duy trừu tượng.

Như vậy: cảm giác, tri giác và biểu tượng là những giai đoạn kế tiếp nhau của hình thức nhận thức cảm tính. Trong nhận thức cảm tính đã tồn tại cả cái bản chất lẫn không bản chất, cả cái tất yếu và ngẫu nhiên, cả cái bên trong lẫn bên ngoài sự vật. Nhưng ở đây, con người chưa phân biệt được cái gì là bản chất với không bản chất, đâu là tất yếu với ngẫu nhiên, đâu là cái bên trong với bên ngoài. Yêu cầu của nhận thức đòi hỏi phải tách ra và nắm lấy cái bản chất, tất yếu, bên trong, chỉ có chúng mới có vai trò quan trọng cho hoạt động thực tiễ và nhận thức của con người nên nhận thức sẽ vượt lên một trình độ mới, cao hơn về chất, đó là trình độ nhận thức lý tính hay là giai đoạn tư duy trừu tượng.

– Tư duy trừu tượng hay là nhận thức lý tính, là giai đoạn phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất của đối tượng. Đây là giai đoạn nhận thức thực hiện chức năng quan trọng nhất là tách ra và nắm lấy cái bản chất có tính quy luật của các sự vật, hiện tượng. Vì vậy, nó đạt đến trình độ phản ánh sâu sắc hơn, chính xác hơn và đầy đủ hơn cái bản chất của đối tượng, là giai đoạn cao của quá trình nhận thức khái niệm, phán đoán, suy lý.

+ Khái niệm: là hình thức cơ bản nhất của tư duy trừu tượng, nó phản ánh, khái quát những đặc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của một lớp các sự vật, hiện tượng nhất định (đó chính là những đặc tính bản chất của sự vật). Khái niệm được hình thành trên cơ sở hoạt động thực tiễn, là kết quả của sự khái quát những tri thức do trực quan sinh động đem lại. Khái niệm vừa có tính chủ quan vừa có tính khách quan, vừa có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, vừa thường xuyên vận động và phát triển. Nó chẳng những rất linh động, mềm dẻo năng động mà còn là “Điểm nút” của quá trình tư duy trừu tượng, là cơ sở để hình thành phán đoán.

+ Phán đoán là sự vận dụng các khái niệm trong ý thức con người để phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng cũng như các thuộc tính, tính chất của chúng hay chính là hình thức của sự liên kết các khái niệm lại với nhau. Có nhiều loại phán đoán khác nhau. Tuỳ theo cách phân chia ta có: phán đoán khẳng định, phán đoán phủ định, phán đoán phổ biến, phán đoán đặc thù và phán đoán đơn nhất.

+ Suy lý (suy luận) là quá trình lôgic của tư duy tuân theo quy luật nhất định để tạo ra một phán đoán mới từ những phán đoán tiền đề hay chính là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra tri thức mới. Tính chân thực của phán đoán két luận phụ thuộc vào tính chân thực của phán đoán tiền độ cũng như tính hợp quy luật của quá trình suy luận.

– Giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính (hay trực quan sinh động và tư duy trừu tượng) có sự thống nhất bởi đó là hai giai đoạn của một quá trình nhận thức, dựa trên cơ sở thực tiễn và hoạt động thần binh cao cấp. Chúng là những nấc thang hợp thành chu trình nhận thức, giữa chúng có sự tác động qua lại: Nhận thức cảm tính cung cấp tài liệu cho nhận thức lý tính, nhận thức lý tính tác động trở lại nhận thức cảm tính làm cho nó chính xác hơn, nhạy bén hơn. Nhận thức cảm tính khác nhận thức lý tính ở chỗ.Nhận thức cảm tính là giai đoạn thấp, phản ánh khách thể một cách trực tiếp đem lại những tri thức về bản chất và quy luật của khách thể.

b) Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn

– Nhận thức phải trở về thực tiễn để kiểm tra, khẳng định, kiểm nghiệm là tri thức đúng hay sai lầm, tri thức ấy có chân thực không.

– Quay trở về thực tiễn, nhận thức hoàn thành một chu trình biện chứng của nó. Trên cơ sở hoạt động thực tiễn mới một chu trình nhận thức tiếp theo lại bắt đầu và cứ như thế mãi mãi.

– Xét trong toàn bộ nhận thức của con người về thế giới, thực tiễn là yếu tố không thể thiểu được của quá trình nắm bắt chân lý – là vòng khâu “chuyển hoá” kết quả nhận thức thành chân lý khách quan.

3. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý

a) Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất của chân lý.

Nhờ có thực tiễn, chúng ta phân biệt được chân lý và sai lầm, tức thực tiễn đóng vai trò là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.

– Thực tiễn là hoạt động vật chất có tính tất yếu khách quan, diễn ra độc lập đối với nhận thức, nó luôn luôn vận động, và phát triển trong lịch sử. Nhờ đó là mà thúc đẩy nhận thức cùng vận động, phát triển. Mọi sự biến đổi của nhận thức suy cho cùng không thể vượt ra ngoài sự kiểm tra của thực tiễn. Nó thường xuyên chịu sự kiểm nghiệm trực tiếp của thực tiễn.

– Chính thực tiễn có vai trò làm tiêu chuẩn, thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời nó bổ sung, chỉnh sửa, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức. C.Mác đã viết “vấn đề tìm hiểu tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”.

– Nhờ có thực tiễn kiểm nghiệm, chứng minh mà ta xác định đâu là cái hợp quy luật, đâu là cái tri thức đúng, đâu là sai lầm cũng như cái gì nên làm, cái gì không nên làm, đâu là cái không hợp với quy luật mà chân lý chính là cái tri thức đúng, cái hợp quy luật hay là đúng với quy luật.

– Thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức còn phải luôn luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Vì thế mà thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức vừa là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Và khi nhấn mạnh điều này thì V.I. Lênin đã viết: “Quan điểm về đời sống và thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức”.

– Chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực tiễn, quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, độ sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, việc nghiên cứu phải liên hệ với thực tiễn tức là “học phải đi đôi với hành”. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu, không xác định được quy luật, không phân biệt được quy luật đó có hợp quy luật hay không có là tri thức đúng (chân lý) hay không nhưng nếu tuyệt đối hóa thì sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa nên đòi hỏi chúng ta phải có cái nhìn đúng đắn thì mới xác định được quy luật hợp chân lý.

– Những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm chính là những tri thức đúng, có đúng thời mới phù hợp được với hiện thực khách quan còn tri thức sai, sai lầm thì không thể phù hợp với hiện thực khách quan được.

b) Chân lý có tính cụ thể, có đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh với một đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể.

Thực tiễn lại có “tính phổ biến” và là “hiện thực trực tiếp” nhờ đó thực tiễn có thể “vật chất hoá” được tri thức, biến tri thức thành các khách thể vật chất có tính xác thực cảm tính.

– Mỗi tri thức đúng đắn bao giờ cũng có một nội dung nhất định, nội dung đó luôn gắn liền với đối tượng xác định, diễn ra nên bất kỳ chân lý nào cũng gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể.

– Việc nắm vững những nguyên tắc về tính cụ thể của chân lý có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn. Việc xem xét, đánh giá mỗi sự vật, hiện tượng, mỗi việc làm phải dựa trên quan điểm lịch sử – cụ thể để vận dụng vào thực tiễn và xác định được rõ chân lý.

– Nhận thức là những tri thức về bản chất quy luật của hiện thực, của thực tiễn, mà thực tiễn lại còn là cơ sở, động lực và mục đích của nhận thức để từ đó giúp con người hiểu và biết thêm được về các quy luật, đã là quy luật thì không thể phủ định được và sẽ tồn tại và là chân lý.

c) Tiêu chuẩn thực tiễn vừa mang tính tuyệt đối vừa mang tính tương đối.

Tuyệt đối vì nó là tiêu chuẩn khách quan duy nhất, tương đối vì bản thân thực tiễn luôn luôn biến đổi, phát triển. Sự biến đổi này dẫn đến chỗ tiếp tục bổ sung, phát triển những tri thức đã có trước đó.

– Chân lý cũng là khách quan, là sự thống nhất giữa hai trình độ, chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối thì điều đó cũng có nghĩa là nhận thức phải trải qua một quá trình đi từ chưa biết đầy đủ đến biết đầy đủ hơn về sự vật, hiện tượng. Mà thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp của nhận thức, là mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra độ chuẩn xác trong kết quả nhận thức. Mà nhận thức là một quá trình có tính tích cực, chủ động và sáng tạo của những hoạt động vật chất có tính mục đích, lịch sử – xã hội của con người nhằm cải tạo thế giới.

– Một chân lý luôn có tính đích thực, xác thực và luôn được thực tiễn kiểm nghiệm bởi chân lý là sản phẩm của quá trình nhận thức con người là tri thức đúng.

– Chính trong thực tiễn mà con người chứng minh được chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy.

– Thực tiễn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau nên các hình thức kiểm nghiệm bằng thực tiễn đối với tri thức là chân lý cũng khác nhau, có thể là tiến hành thực nghiệm, là áp dụng những phát minh vào thực tế công…

II. SỰ VẬN DỤNG VÀO ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM

1. Tính cấp thiết của đổi mới thành chủ

– Đổi mới để gắn liền với hoạt động thực tiễn phù hợp với những trương, đường lối hiện nay của Đảng ta, để gắn lý luận, nhận thức với thực tiễn từ đó giúp cho sự nhận thức của chúng ta về các quy luật và trên cơ sở đó đề ra được đường lối cách mạng đúng đắn trong công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng ta hiện nay.

– Chúng ta phải đổi mới để tranh thủ cơ hội, thách thức, biết tận dụng, khai thác sử dụng có hiệu quả những thành tựu mà nhận thức dã đạt được để rút ngắn thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

– Nhằm phù hợp với xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá sản xuất nhằm phù hợp với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ để tiếp thu và vận dụng.

– Đổi mới để phù hợp với xu thế của thời đại đi lên chủ nghĩa xã hội mới giữ vững được độc lập, tự do cho dân tộc, mới thực hiện được mục tiêu làm cho moi người dân được ấm no, tự do, hạnh phúc.

– Nhằm tạo nên vị thế mới, phù hợp giữa tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất mới cũng như để đáp ứng cho phù hợp giữa nhận thức, lý luận thực tiễn để từ đó tìm ra quy luật phù hợp với bước phát triển của thời đại mới. – Điều quan trọng của đổi mới ở Việt Nam hiện nay là để đảm bảo giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng sự lãnh đạo của Đảng phải kiên trì, kiên định và phát triển nền tảng thị trường, lý luận cách mạng và khoa học.

2. Những nội dung của công cuộc đổi mới

* Đổi mới tư duy trong sự gắn liền với hoạt động thực tiễn là một trong những chủ trương lớn hiện nay của Đảng ta. Chỉ có đổi mới tư duy lý luận, gắn lý luận với thực tiễn thì mới có thể nhận thức được các quy luật khách quan và cách mạng đúng đắn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.

– Đại hội IX (tháng 4 – 2001) là đại hội mở đầu thế kỷ XXI ở Việt Nam đã nhìn lại một cách tổng quát quá trình cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX và định ra chiến lược phát triển đất nước trong hai tập niên đầu của thế kỷ XXI với phương hướng tổng quát là “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ tô quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Đại hội xác định mục tiêu chung của cách mạng nước ta hiện nay là: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.

– Đại hội IX đã khẳng định phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ ghĩa là một mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của cả nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.

– Hội nghị trung ương 5 khoá IX (tháng 2 – 2002) đã ra một số nghị quyết sau: Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn thời kỳ 2001 – 2010. Phát triển kinh tế tư nhân là chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công tác tư tưởng, lý luận phải góp phần giải quyết những vẫn nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng…

– Hội nghị trung ương 7 khoá IX (tháng 1 – 2003) khẳng định vai trò động lực chủ yếu của đại đoàn kết.

– Hội nghị trung ương 9 khoá IX (tháng 1 – 2004) lại nhấn mạnh vấn đề tạo bước tiến rõ rệt về chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động và khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển văn hoá, xã hội nh đồng bộ hơn với tăng trưởng kinh tế, tạo sự chuyển biến toàn diện và sâu sắc trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng…

– Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển đường lối đổi mới của Đảng ta có thể rút ra một số kết luận là:

+ Đường lối đổi mới không phải tự nhiên mà có mà phải tìm tòi trong một quá trình, quá trình đó phải được thử nghiệm, đổi mới từng bước từ thấp đến cao, từ từng bộ phận đến toàn diện.

+ Trong quá trình đổi mới, ý kiến, cách làm sáng tạo của nhân dân các địa phương là cực kỳ quan trọng. Biết lắng nghe, chắt lọc, tổng kết, khái quát thì sẽ có những quyết sách đúng, chủ trương phù hợp,nhất là vào những thời điểm khó khăn hoặc có tính bước ngoặt.

+ Đổi mới là đấu tranh giữa căn cứ và cái mới nhiều khi diễn ra ngay trong mỗi con người trong từng tổ chức. Thành công của Đảng ta là ở chỗ đã kiên quyết đổi mới, dám nhìn thẳng vào sự thật, dám thoả thuận sai lầm. Đảng xác định đổi mới phải kiên quyết nhưng phải làm từng bước vững chắc, thận trọng, có nguyên tắc, không xa rời mục tiêu.

+ Đường lối đổi mới được hình thành trên cơ sở độc lập tự chủ, sáng tạo, xuất phát từ thực tế Việt Nam, đồng thời có tham khảo kinh nghiệm các nước khác một cách chọn lọc, hợp quy luật, thuận lòng người, rễ, nhanh chóng đi vào cuộc sống.

* Nhìn lại 20 năm đổi mới là cả một chặng đường ta có thể rút ra một số bài học sau:

– Quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ Minh. nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí

– Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình hức và cách làm phù hợp.

– Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn nhạy bén với cái mới.

– Phát huy cao độ nội lực, đồng thời khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.

– Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.

* Đổi mới là động lực, ổn định là điều kiện tiền đề phát triển nhanh và bền vững là mục đích để đưa đất nước phát triển mạnh mẽ và vững chắc theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì: “Phương hướng chung” đẩy mạnh công cuộc đổi mới ở nước ta trong thời gian tới là “Nắm vững thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy lùi nguy cơ, huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước, tạo ra những động lực mới, những đột phá mới, từ tư duy đến tổ chức và hành động thực tiễn để sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng bán phát triển và cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”.

Để thực hiện phương hướng nêu trên, cần quán triệt và thực hiện đồng bộ các định hướng cơ bản sau:

– Giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, thực hiện phát triển nhanh và bền vững; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển kinh tế thị trường .

– Đổi mới hệ thống chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế, trên cơ sở đổi mới kinh tế làm trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, đẩy mạnh đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị.

– Gắn kết chặt chẽ kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát triển.

– Phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chăm lo phát triển nhân tố con người, làm cho văn hoá thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội.

– Giữ vững môi trường hoà bình vì sự phát triển của đất nước.

– Tăng cường sức mạnh bảo vệ tổ quốc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. – Không ngừng đổi mới, chỉnh đốn, nâng cao năn lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, chúng ta phải kiên định sự lãnh đạo của Đảng, là vấn đề nguyên tắc, sống còn đảm bảo sự phát triển của đất nước. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là làm cho Đảng lãnh đạo có hiệu quả hơn, Nhà nước quản lý có hiệu lực hơn.

* Vậy: Để đi lên chủ nghĩa xã hội chúng ta phải phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xã hội nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm nền tảng tinh thần cho xã hội, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, vì hoà bình, độc lập, hợp tác và phát triển.

3. Những thành tựu cơ bản của đổi mới

Qua 20 năm đổi mới, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng sáng tỏ. Cho đến nay, Đảng ta đã bước đầu hình thành được trên những nét cơ bản một hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, làm cơ sở khoa học cho đường lối của Đảng, góp phần bổ sung và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.

Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến nay đã thu được những kết quả bước đàu khả quan, giữ vững ổn định chính trị, tạo môi trường hợp tác đầu tư, phát triển kinh tế đời sống nhân dân được cải thiện, điều đó đã củng cố và khẳng định con đường lựa chọn lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn

a) Về nhận thức thì sau 20 năm đổi mới với sự phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân công cuộc đổi mới đã đạt được:

– Về kinh tế: Đã chuyển dịch được từ nền kinh tế thành phần, nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với đặc điểm dân tộc, phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất.

– Kỹ thuật, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

+ Phát triển công nghiệp, dịch vụ gắn công nghiệp hoá, hiện đại hoá với từng bước phát triển kinh tế tri thức.

+ Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

– Về hệ thống chính trị: Vận hành theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.

+ Từ hội nghị trung ương 6 khoá VI Đảng ta sử dụng khái niệm hệ thống chính trị thay cho hệ thống chuyên chính vô sản. Báo cáo chính trị Đại hội VII chỉ rõ: thực chất của công cuộc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị nước ta là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.

+ Trong đổi mới tư duy về hệ thống trị, vấn đề cơ bản mới nhận thức về Nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt, xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân, tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân, thực hành dân chủ.

+ Có nhận thức sâu sắc hơn vai trò của dân chủ hoá toàn bộ đời sống xã hội, phát triển kinh tế việc phát huy dân chủ ở nước ta. thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế với

– Về đối ngoại về tình hình thế giới, thời đại và chính sách đối ngoại có nhiều đổi mới.

+ Cách tiếp cận về vấn đề nội dung, tính chất thời đại có nhiều mặt sách hợp và rõ nét hơn, đầy đủ hơn.

+ Đảng ta đã tỉnh táo đánh giá những thành tựu mà chủ nghĩa xã hội hiện thực đã giành được cho dù chế độ Đông Âu sụp đổ. xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và

+ Đã nhận thức rõ hơn mưu toan của Mỹ thiết lập “một trận tự mới” thực chất là trật tự thế giới tư bản chủ nghĩa do Mỹ khống chế.

+ Nhận thức rõ hơn, đúng hơn sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ, có đường lối đối ngoại phù hợp góp phần củng cố môi trường quốc tế để phát triển kinh tế nhưng phải sáng tạo, tư tưởng quan trọng chỉ đoạ công tác đối ngoại, rõ ràng, sáng suốt về lợi ích dân tộc, tự chủ, tự cường, hợp tác…

– Về quốc phòng an ninh cũng có sự phát triển và đổi mới

+ Nhận thức về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

+ Nhận thức về mục tiêu, nhiệm vụ, sức mạnh, lực lượng bảo vệ tổ quốc.

+ Phương thức bảo vệ, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ an ninh quốc gia, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.

– Về xây dựng Đảng.

+ Làm rõ được yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng cần tìm tòi mô hình, con đường, bước đi xây dựng chủ quan. nghĩa xã hội phù hợp với quy luật khách

+ Đã xác định được vị trí của tư tưởng Hồ Chí Minh trong nền tảng tư tưởng của Đảng, khẳng định chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư mạng. tưởng của Đảng, kim chỉ nam cho hành động cách

+ Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, nâng cao trình độ nắm bắt, vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

+ Phát triển và từng bước làm sáng tỏ lý luận về vai trò của Đảng lãnh đạo, luận chứng một cách sâu sắc có sức thuyết phục, có tính đồng bộ, toàn diện trong xây dựng Đảng.

– Về văn hoá, xã hội, con người.

+ Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Đã có tính năng động chủ động và tính tích cực xã hội, khuyến khích làm giàu.

+Về văn hoá và con người: vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển kinh tế xã hội nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, với lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường.

+ Khẳng định con người là vốn quý nhất nền văn hoá Việt Nam thống nhất, đa dạng các giá trị sắc thái bổ sung cho nhau, khẳng định xây dựng và phát triển văn hoá xã hội sự đạo. nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh

+ Có sự tự do về tôn giáo, tín ngưỡng giúp cho hoạt động tinh thần.

b) Về hoạt động thực tiễn

– Về kinh tế

+ Đã đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường, đời sống của các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 10 năm (1990 – 2000) đạt 7,5% năm 2000, so với năm 1990 GDP tăng gấp 2lần, có vốn kinh tế chuyển dịch đáng kể, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế được cải thiện.

+Thực hiện có kết quả chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, kinh tế tập thể nòng cốt là hợp tác xã, kinh tế tư nhan được phát huy, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng có bước phát triển

– Về hệ thống chính trị

+ Quán triệt nguyên tắc quyền lực Nhà nước thuộc về thực hành dân chủ, phát huy tính sáng tạo của nhân dân nhân dân,

+ Quốc hội có bước biến đổi mới quan trọng từ khâu bầu cử đại biểu đến hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động.

+ Có phương hướng chiến lược lập pháp, chỉ đạo sửa đổi hiến pháp phù hợp các thời đại mới +Kiện toàn tổ chức, bộ máy chính phủ và cơ quan chính quyền địa phương.

+ Có sự phân định rõ ràng hơn các cơ quan tư pháp thực hiện chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động.

+Tiến hành cải cách hành chính và thê chế bộ máy, phương thức hoạt động. Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể ngày càng phát huy được vai trò, có nhiều chủ trương, biện pháp đúng đắn

– Về đối ngoại

+ Phá thế bị bao vây, cấm vạn, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, ra nhậ ASEAN năm 1995, bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc năm 1991 với Hoa Kỳ năm 1995 có quan hệ ngoại giao với 167 nước trong số hơn 200 quốc gia.

+ Xác lập được quan hệ ổn định với các nước lớn đã ký hiệp định về hợp tác với EU năm 1995, tuyên bố về quan hệ đối tác chiến lược với Nga năm 2001.

+ Giải quyết hoà bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ biển, đối với các nước liên quan, giữ vững môi trường hoà bình.

+ Tranh thủ ODA thu hút FDI mở rộng thị trường ngoài nước chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, đã ra nhập AFTA và APEC.

– Về an ninh, quốc phòng

+ Giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, giữ vững an ninh chính trị, xã hội củng cố lòng tin nhân dân…

+ Xây dựng được thế trận quốc phòng toàn dân, nêu cao tinh thần sẵn sàng chiến đấu, tạo tiềm lực an ninh, quốc phòng, bố trí lực lượng hợp lý

+ Nêu cao ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ, tinh thần cảnh giác…

– Về xây dựng Đảng

+ Đảng vẫn luôn giữ vững, cơ bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học, kiên định về mục tiêu, lý tưởng độc lập.

+ Công tác tư tưởng chính trị của Đảng có nhiều đổi mới, nhằm nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy, thống nhất tư tưởng.

+ Công tác tổ chức và cán bộ được đổi mới, thể hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, công tác củng cố tổ chức cơ sở Đảng và xây dựng đội ngũ Đảng viên có chuyển biến tích cực.

+ Phương thức lãnh đạo của Đảng có bước tiến bộ đã có đổi mới trong việc ra quyết định, tổ hướng cần thiết, ngắn gọn. chức học tập nghị quyết và triển khai theo

– Về văn hoá, xã hội, con người.

+ Công tác giải quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo đạt kết quả tốt. Từ 2000 đến 2005 tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động.

+ Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới, khoa học công nghệ và tìm lực khoa học công nghệ có bước phát triển nhất định.

+ Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân có tiến bộ, tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên71,3 năm 2005, văn hoá có tính chủ động sáng tạo, tích cực xã hội.

+ Cơ cấu xã hội, nước ta có những biến đổi theo hướng tiến bộ, đội ngũ trí thức hiện nay nước ta có 1,8 triệu người với trình độ từ cao đảng, đại học trở nên trong đó có 14 nghìn Tiến sĩ và Tiến sĩ khoa học.

+ Năm 2004 có 22,5% số được đào tạo nghề là 13,3%. người lao động đã qua đào tạo, trong đó số

KẾT LUẬN

Những bước phát triển gì nữa sẽ đặt ra cho nền kinh tế Việt Nam trước thềm thiên niên kỷ mới? Đổi mới kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải chăng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thời đại ? Tất nhiên, những câu trả lời cho vấn đề ấy còn đang nằm ở phía trước. Song chắc chắn, với con đường đi đúng đắn và sự lựa chọn quyết đoán của Đảng và Nhà nước, chúng ta sẽ gặt hái được rất nhiều thành tựu mới. Nhà nước sử dụng các đòn bẩy kinh tế trong kế hoạch hoá trực tiếp và kế hoach hóa gián tiếp để đảm bảo thực hiện những phương hướng, mục tiêu của kế hoạch kinh tế quốc dân. Khi đi đúng vào tiến trình lịch sử của nhân loại, tất yếu chúng ta sẽ không bị lạc hậu, tụt lùi mà ngày càng có vị thế, phát triển mạnh mẽ hơn. Hy vọng chỉ một thời gian không lâu nữa nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển vượt bậc, phát triển có cơ sở vững chắc, đứng vào vị trí những nước có nền kinh tế tăng trưởng mạnh trên thế giới.

Ví dụ thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý

– Trái đất quay quanh mặt trời

– Không có gì quý hơn độc lập tự do

– Nhà bác học Galilê phát minh ra định luật về sức cản của không khí

=> Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vì chỉ có đem những tri thức đã thu nhận được qua nhận thức đối chiếu với thực tiễn để kiểm tra, kiểm nghiệm mới khẳng định được tính đúng đắn của nó.

Chân lý

Một số câu hỏi liên quan đến thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý

  • Chứng minh thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý?

  • Vì sao thực tiễn được coi là tiêu chuẩn của chân lý?

  • Giải thích vì sao thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý?

  • Vì sao nói thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý nêu dẫn chứng?

  • Lấy ví dụ chứng minh thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm nghiệm tính đúng đắn của tri thức?


Các tìm kiếm liên quan đến Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý gdcd 10, ví dụ thực tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận, thực tiễn là cơ sở của nhận thức, thực tiễn là gì? thực tiễn có vai trò như thế nào đối với nhận thức? cho ví dụ, vận dụng vai trò của thực tiễn đối với nhận thức để giải quyết vấn đề học đi đôi với hành

Thực tiễn là gì? Chân lý là gì?

– Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất, có mục đích, mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
– Chân lý là những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm.

Luận điểm nào dùng để chứng minh thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý?

Để chứng minh thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý hãy căn cứ vào những luận điểm sau:
– Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất của chân lý.
– Chân lý có tính cụ thể, có đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh với một đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
– Tiêu chuẩn thực tiễn vừa mang tính tuyệt đối vừa mang tính tương đối.

5/5 - (42863 bình chọn)

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền