Những thách thức về mặt pháp lý trong việc bảo hộ quyền tác giả trong môi trường internet

Chuyên mụcLuật sở hữu trí tuệ bao-ho-quyen-tac-gia

(Bài tham luận “Hội thảo bảo hộ quyền tác giả trong môi trường số tại Việt Nam” tại trường ĐH. Luật TP. Hồ Chí Minh)

 

  1. Khung pháp luật về bảo hộ quyền tác giả trong môi trường Internet

Theo pháp luật Việt Nam, bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi chung là quyền tác giả) nói riêng, quyền sở hữu trí tuệ nói chung được điều chỉnh bởi một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm:

  • Bộ luật dân sự năm số 33/2005/QH11 ngày 14 tháng 06 năm 2005;
  • Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 số 50/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005, được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 36/2009/QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2009 (Luật SHTT);
  • Nghị định 100/2006/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 21/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan;
  • Nghị định số 85/2011/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 20/9/2011 sửa đổi, bổ sung Nghị định 100/2006/NĐ-CP ngày 21/9/2006;
  • Nghị định 131/2013/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 16/10/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan;
  • Chỉ thị số 04/2007/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 22/02/2007 về việc tăng cường bảo hộ quyền tác giả đối với chương trình máy tính.
  • Chỉ thị số 36/2008/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 31/12/2008 về việc tăng cường quản lý và thực thi bảo hộ quyền tác giả vả quyền liên quan.
  • Thông tư liên tịch số 07/2012/TTLT-BTTTT-BVHTTDL ngày 19/6/2012 quy định trách nhiệm của doanh nghiệp trung gian trong việc bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan trên môi trường mạng Internet và mạng viễn thông.
  • Thông tư số 15/2012/TT-BVHTTDL ngày 13/12/2012 hướng dẫn hoạt động giám định quyền tác giả, quyền liên quan.
  • Thông tư liên tịch số 01/2008 ngày 29/02/2008 hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
  • Thông tư liên tịch số 02/2008 ngày 03/4/2008 hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án nhân dân.
  • Bộ luật Hình sự số 15/1999/QH10 ngày 21 tháng 12 năm 1999, được sửa đổi bổ sung bởi Luật số 37/2009/QH12 ngày 19 tháng 06 năm 2009.
  • Luật Hải quan số 29/2001/QH10 ngày 29 tháng 06 năm 2001, được sửa đổi bổ sung bởi Luật số 42/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005.
  • Luật Xuất bản số 19/2012/QH13 ngày 20 tháng 11 năm 2012
  • Luật Điện ảnh số 62/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006, được sửa đổi bổ sung bởi Luật số 31/2009/QH12 ngày 18 tháng 6 năm 2009
  • Luật Công nghệ thông tin số 67/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006
  • Nghị định 154/2005/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 15/12/2005 quy định chi tiết một số điều của Luật Hải quan về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan
  • Thông tư số 44/2011/TT-BTC ngày 01/4/2012 hướng dẫn công tác chống hàng giả và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực hải quan.

Ngoài các quy định của pháp luật Việt Nam, việc bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam còn có thể được điều chỉnh bởi các điều ước quốc tế đa phương, song phương quan trọng mà Việt Nam đã là thành viên trong lĩnh vực này như:

  • Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật năm 1886 (có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 26/10/2004)
  • Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình và các tổ chức phát sóng (có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 01/3/2007)
  • Công ước Geneve về bảo hộ các nhà sản xuất bản ghi âm chống lại việc sao chép trái phép bản ghi âm của họ (có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 06/7/2005)
  • Công ước Brussel liên quan đến việc phân phối các tín hiệu mang chương trình được truyền qua vệ tinh (có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 12/01/2006)
  • Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 11/01/2007)
  • Hiệp định giữa Chính phủ CHXHCN Việt Nam và Chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về thiết lập quan hệ quyền tác giả ngày 27/6/1997
  • Hiệp định giữa Chính phủ CHXHCN Việt Nam và Chính phủ Liên bang Thụy Sĩ về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và hợp tác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ ngày 07/7/1999;
  • Hiệp định thương mại giữa Chính phủ CHXHCN Việt Nam và Chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ ngày 13/7/2000.

Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh, Việt Nam chưa gia nhập một số điều ước quốc tế đa phương quan trọng trong lĩnh quyền tác giả, trực tiếp điều chỉnh vấn đề bảo hộ quyền tác giả trong môi trường số. Đó là: (i) Hiệp ước của WIPO về quyền tác giả (WCT, có hiệu lực từ ngày 06/3/2002, hiện nay có 91 quốc gia là thành viên), được ký kết nhằm làm rõ một số quy định của Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật trong môi trường số, ví dụ làm rõ hơn về quyền sao chép, quyền truyền đạt tác phẩm trong môi trường số. Đồng thời, Công ước này cũng bổ sung thêm một số quyền của tác giả, quyền và nghĩa vụ của quốc gia thành viên trong việc bảo hộ quyền tác giả trong môi trường số; (ii) Hiệp ước của WIPO về quyền của người biểu diễn (WPPT, có hiệu lực từ ngày 20/5/2002, hiện nay có 92 quốc gia là thành viên) được ký kết nhằm làm rõ và bổ sung một số quy định của Công ước Rome 1961 về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình và các tổ chức phát sóng trong môi trường số.

Mặc dù pháp luật Việt Nam còn một số điểm chưa thực sự phù hợp với quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cũng như chưa thực sự phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam, nhưng đánh giá một cách khách quan, pháp luật sở hữu trí tuệ và các văn bản pháp luật liên quan của Việt Nam đã tạo được khung pháp lý tương đối đầy đủ cho việc bảo hộ quyền tác giả nói riêng, quyền sở hữu trí tuệ nói chung. Các quy định này cũng được coi là phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Và trong trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên với quy định của pháp luật Việt Nam, Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam cũng như Điều 5 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam (Luật SHTT) khẳng định nguyên tắc cho phép áp dụng quy định của điều ước quốc tế. Điều này thực sự đã tạo được cơ sở pháp lý cho việc bảo hộ quyền tác giả nói riêng, quyền sở hữu trí tuệ nói chung tại Việt Nam.

Về nguyên tắc, các quy định trong pháp luật Việt Nam được áp dụng chung cho các loại hình tác phẩm được liệt kê trong Điều 14 Luật SHTT và đối với quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa trong môi trường truyền thống và trong môi trường số. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc thù của việc bảo hộ quyền tác giả trong môi trường số, bên cạnh các quy định chung đó, pháp luật Việt Nam có một số quy định điều chỉnh riêng vấn đề này.

  1. Thực trạng xâm phạm quyền tác giả tại Việt Nam

Mặc dù pháp luật Việt Nam hiện hành về cơ bản đã đáp ứng được các yêu cầu về bảo hộ quyền tác giả trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cũng như yêu cầu thực tiễn của Việt Nam, nhưng trên thực tế tình trạng xâm phạm quyền tác giả trong môi trường Internet tại Việt Nam hiện nay vẫn còn ở mức độ rất phổ biến. Hành vi xâm phạm quyền tác giả nói chung, trên môi trường Internet nói riêng diễn ra đối với tất cả các loại hình tác phẩm, từ tác phẩm văn học, khoa học đến tác phẩm điện ảnh, âm nhạc, sân khấu, chương trình máy tính… Các hành vi xâm phạm quyền cũng rất đa dạng, từ xâm phạm quyền tài sản như quyền sao chép, quyền truyền đạt, phân phối tác phẩm đến quyền nhân thân như quyền công bố tác phẩm, quyền bảo vệ sự vẹn toàn của tác phẩm… Các hành vi xâm phạm ngày càng tinh vi hơn với việc khai thác sự phát triển của công nghệ (Pear to Pear: P2P, Bit Torrent, Cyberlockers…).

Theo Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 36/2008/CT-TTg về việc tăng cường quản lý thực thi và bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan (quyền tác giả) của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (Bộ VHTTDL), trong năm 2009, lực lượng thanh tra chuyên ngành văn hóa, thể thao và du lịch đã thu giữ 649.324 băng đĩa các loại và 3885 bản sách. Tổng số tiền xử phạt vi phạm hành chính là 11,500,510,000 VNĐ. Trong hai năm 2010 – 2011, thanh tra Bộ VHTTDL đã xử phạt vi phạm hành chính với tổng số tiền 227,000,000 VNĐ đối với các công ty có các website lưu trữ, cung cấp và phổ biến đến công chúng số lượng lớn các bản ghi âm không được sự cho phép của chủ sở hữu quyền. Trong năm 2013, thanh tra Bộ VHTTDL đã tiến hành xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với chương trình máy tính với số tiền 2,033,000,000 VNĐ và yêu cầu ba website tháo gỡ hàng nghìn bộ phim vi phạm bản quyền của sáu hãng phim lớn của Mỹ. Thanh tra Bộ VHTTDL cũng đã tiếp nhận 60 đơn thư khiếu nại có liên quan đến tranh chấp quyền tác giả đối với 142 đầu sách của 25 nhà xuất bản. Đó là chưa kể đến các trường hợp xử lý ở các địa phương.[1]

Những số liệu trên chỉ phản ánh một phần rất nhỏ thực trạng xâm phạm quyền tác giả tại Việt Nam. Trên thực tế, với khoảng 400 website có sử dụng video (phim và nhạc) tại Việt Nam, trong đó phần lớn tác phẩm được sử dụng trái phép thì có thể thấy số lượng tác phẩm bị vi phạm quyền tác giả sẽ rất lớn. Thực tế việc sao chép, đăng tải lại các bài báo trên các báo điện tử, các website còn rất phổ biến tại Việt Nam.

Tuy nhiên, đây không phải là tình trạng cá biệt ở Việt Nam mà còn là tình trạng chung tại rất nhiều quốc gia.. Ví dụ tại Hàn Quốc, trong năm 2011, có khoảng 2,7 tỉ nội dung các loại hình sao chép lậu (online và truyền thống), thất thoát khoảng 2,400 tỉ won. Trong năm 2013, chỉ riêng việc sao chép lậu online đã chiếm khoảng 4000 tỉ won[2]. Tại Liên bang Nga, ước tính mỗi năm ngành công nghiệp điện ảnh Nga tổn thất hơn 4 tỷ USD do những hành vi vi phạm bản quyền cũng như phổ biến trái phép các bộ phim trên internet[3].

Có rất nhiều lý do giải thích cho tình trạng trên. Đầu tiên phải kể đến là sự phát triển mạnh mẽ của Internet và các thiết bị cho phép truy cập mạng Internet đã khiến cho việc truyền tải, sao chép các tác phẩm trở nên rất dễ dàng. Sau đó là thói quen “sài chùa” và ý thức không tôn trọng pháp luật sở hữu trí tuệ của đại bộ phận người dân. Năng lực chuyên môn và sự thiếu hụt về nhân lực, về cơ sở vật chất và điều kiện kỹ thuật trong các cơ quan thực thi quyền sở hữu trí tuệ cũng là một trong những yếu tố làm cho việc thực thi quyền tác giả nói riêng, quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam nói chung còn nhiều hạn chế. Các chủ thể quyền chưa có ý thức bảo vệ quyền của mình. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp pháp luật chưa thực sự bắt kịp được với sự phát triển của công nghệ, chưa thực sự bảo hộ hiệu quả quyền tác giả trong môi trường Internet.

  1. Những thách thức về mặt pháp lý đối với việc bảo hộ quyền tác giả trên Internet

Internet đã mang lại rất nhiều lợi ích cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và người sử dụng. Tuy nhiên, môi trường Internet cũng tạo điều kiện cho các hành vi xâm phạm quyền tác giả được thực hiện một cách dễ dàng với mức độ thiệt hại rất cao và đặt ra rất nhiều thách thức đối với việc bảo hộ quyền tác giả, trong đó có nhiều thách thức về mặt pháp lý.

Về mặt nguyên tắc, các quy định của pháp luật về quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả được áp dụng cho các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học nói chung, không phân biệt hình thức định dạng (tác phẩm in truyền thống hay định dạng là tác phẩm số hoặc các tác phẩm được số hóa). Tuy nhiên, đặc thù của việc bảo hộ quyền tác giả trong môi trường số đòi hỏi cần phải có sự giải thích rõ ràng đối với một số quyền tài sản của chủ sở hữu quyền tác giả để làm cơ sở cho việc xác định hành vi xâm phạm quyền tác giả và rộng hơn là cho việc bảo hộ hiệu quả quyền tác giả trong môi trường số. Trong phạm vi nghiên cứu này, tác giả không có tham vọng nghiên cứu tất cả các vấn đề pháp lý phát sinh trong bảo hộ quyền tác giả trong môi trường Internet mà chỉ giới hạn nghiên cứu một số vấn đề nhất định.

Xác định hành vi xâm phạm quyền sao chép và ngăn ngừa, xử lý hành vi sao chép trái phép

Theo quy định tại Điều 4(10) Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, sao chép được định nghĩa “là việc tạo ra một hoặc nhiều bản sao của tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc tạo bản sao dưới hình thức điện tử”. Việc sao chép có thể được tiến hành một cách trực tiếp – là việc tạo ra bản sao từ chính các tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình, hoặc gián tiếp – là việc tạo ra các bản sao khác không từ chính các tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình, như sao chép từ mạng thông tin điện tử, chương trình phát sóng, dịch vụ mạng bưu chính viễn thông liên quan và các hình thức tương tự khác.[4] Quy định trên của pháp luật Việt Nam điều chỉnh quyền sao chép trong môi trường truyền thống như sao chụp và sao chép trong môi trường số, phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền tác giả như Công ước Berne[5] và WPPT[6]. Quyền sao chép tác phẩm là một trong các quyền tài sản độc quyền thuộc quyền tác giả, do chủ sở hữu thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện.

Quyền sao chép là một trong những quyền tài sản quan trọng nhất của chủ sở hữu quyền tác giả và cũng là quyền thường bị xâm phạm nhiều nhất trong môi trường truyền thống (tác phẩm in, bản ghi âm, ghi hình) cũng như trong môi trường số. Trên môi trường Internet, việc sao chép và lưu trữ tác phẩm được tiến hành một cách dễ dàng, nhanh chóng với số lượng rất lớn các bản sao nhưng chi phí rất thấp và chất lượng tuyệt hảo. Việc sao chụp truyền thống thường cho chất lượng không thực sự tốt, đặc biệt nếu sao chụp tác phẩm từ các bản copy. Nhưng trên môi trường Internet, có thể sao nhiều lần từ bản copy mà chất lượng đảm bảo như bản gốc. Vì vậy, chỉ cần đưa một bản copy tác phẩm lên Internet là có thể đáp ứng được nhu cầu của hàng triệu người. Việc sao chép trên Internet cũng dễ dàng, nhanh chóng, thuận lợi hơn việc sao chụp trong môi trường truyền thống rất nhiều. Chỉ cần một chiếc máy tính cá nhân hay máy tính bảng hoặc điện thoại thông minh, với một cái nhấp chuột là có thể sao chép được tác phẩm một cách dễ dàng. Các tác phẩm được sao chép có thể được lưu trữ dễ dàng với một dung lượng lớn các thông tin số hóa, và giới hạn dung lượng này được mở rộng hàng năm, đủ đáp ứng nhu cầu của thực tế với công nghệ ngày càng hiện đại hơn. Có thể vào bất cứ website có lưu trữ các tác phẩm nghe nhìn, người sử dụng Internet có thể nghe, xem trực tuyến thậm chí là download tác phẩm từ kho lưu trữ với hàng trăm nghìn tác phẩm âm nhạc, tác phẩm điện ảnh. Điều này là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng quyền sao chép bị xâm phạm nghiêm trọng trong môi trường Internet.

Tuy nhiên, việc bảo hộ quyền sao chép trong môi trường Internet đang phải đối mặt với một số vấn đề pháp lý phức tạp. Một trong những vấn đề đó là việc xác định các bản sao tạm thời có được pháp luật quyền tác giả bảo hộ hay không? Vấn đề khác liên quan đến việc sao chép trong các trường hợp sử dụng các giới hạn và ngoại lệ quyền tác giả. Pháp luật quyền tác giả quy định một số các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép không phải trả thù lao với điều kiện việc sử dụng đó không được làm ảnh hưởng đến sự khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm[7].  Câu hỏi đặt ra, trong môi trường Internet việc thực thi quyền sao chép trong các trường hợp này như thế nào để thực sự đảm bảo cân bằng được lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và người sử dụng là điều không đơn giản. Có thể đưa ra một vài trường hợp. Thứ nhất, đối với trường hợp “tự sao chép không quá một bản nhằm mục đích giảng dạy, nghiên cứu khoa học” theo quy định tại Điều 25(1(a)) Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam hoặc quyền sao chép không quá 10% hoặc 20% số lượng tác phẩm (theo pháp luật một số nước) mà không phải xin phép, không phải trả thù lao sẽ được thực hiện như thế nào trong môi trường Internet? Không có bất cứ cơ chế nào kiểm soát số lượng tác phẩm được sao chép gắn với mục đích giảng dạy, nghiên cứu khoa học của việc sao chép. Do đó, gần như chắc chắn là không thể thực hiện được quy định này trong môi trường Internet. Thứ hai, trường hợp sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu. Pháp luật Việt Nam yêu cầu trong trường hợp này, thư viện không được sao chép quá một bản và không được sao chép, phân phối bản sao tác phẩm tới công chúng, kể cả bản sao kỹ thuật số[8]. Tuy nhiên, trong trường hợp nào thư viện được phép sao chép để lưu trữ hiện nay vẫn còn là vấn đề tranh cãi. Trong phiên họp của Ủy ban quyền tác giả và quyền liên quan của WIPO vào tháng 12/2013, vấn đề này được đưa ra thảo luận và nhận được rất nhiều ý kiến khác nhau. có ý kiến cho rằng quyền này chỉ được phép khi bản gốc không thể lưu trữ được, nhưng đa số các ý kiến đều cho rằng thư viện chỉ được quyền lưu trữ nhằm mục đích công cộng, phi lợi nhuận, nhằm bảo tồn di sản văn hóa[9].

Xác định hành vi xâm phạm quyền truyền đạt, phân phối tác phẩm

Quyền phân phối bản gốc hoặc bản sao tác phẩm là quyền của chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện bằng bất kỳ hình thức, phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được để bán, cho thuê hoặc các hình thức chuyển nhượng khác bản gốc hoặc bản sao tác phẩm. Đối với tác phẩm tạo hình, tác phẩm nhiếp ảnh thì quyền phân phối còn bao gồm cả việc trưng bày, triển lãm trước công chúng. Quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác là quyền độc quyền thực hiện của chủ sở hữu quyền tác giả hoặc cho phép người khác thực hiện để đưa tác phẩm hoặc bản sao tác phẩm đến công chúng mà công chúng có thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian do chính họ lựa chọn[10].

Việc truyền đạt và phân phối tác phẩm trên mạng Internet được tiến hành một cách nhanh chóng và dễ dàng trên phạm vi rộng hơn rất nhiều so với các phương thức truyền thống. Mạng Internet cho phép từ một máy chủ có thể truyền tải tới số lượng người không giới hạn và cho phép người sử dụng tiếp cận nguồn thông tin vào bất cứ thời gian, địa điểm nào mà họ mong muốn. Với công nghệ P2P, việc truyền đạt tác phẩm giữa các máy tính cá nhân được tiến hành dễ dàng hơn mà không cần thông qua máy chủ. Đặc biệt, mỗi người sử dụng Internet đều có thể thực hiện hành vi truyền tải tác phẩm tới những người khác, không giới hạn ở bất cứ yếu tố nào. Do đó nếu một tác phẩm được công bố trên Internet mà không được sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả thì thiệt hại sẽ là rất lớn. Trong trường hợp hợp này, các tác phẩm được công bố trái phép sẽ dẫn đến việc truyền tải, sao chép và thậm chí là phân phối một cách dễ dàng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả. Trường hợp tác phẩm điện ảnh “Cánh đồng bất tận” là một ví dụ điển hình tại Việt Nam. Mặc dù bộ phim chưa có kế hoạch giới thiệu dưới dạng DVD tại thị trường Việt Nam nhưng trên một số website đã xuát hiện đường dẫn chia sẻ bộ phim miễn phí. Trên thị trường băng đĩa cũng lập tức xuất hiện các bản phim “Cánh đồng bất tận” dưới dạng DVD lậu. Mặc dù toàn bộ hình ảnh của trong phim đều là sơ dựng, chưa qua xử lý hậu kỳ như khẳng định của nhà sản xuất nhưng vẫn được thị trường chấp nhận, gây thiệt hại rất lớn cho chủ sở hữu.

Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận, việc có thể công bố, phổ biến và phân phối, lưu trữ tác phẩm trên Internet một cách dễ dàngnhanh chóng với quy mô toàn cầu có tác động cả ở khía cạnh tích cực và tiêu cực đến việc bảo hộ quyền tác giả. Ở khía cạnh tích cực, Internet giúp cho tác giả, các chủ sở hữu quyền tác giả có thể quảng bá tác phẩm của mình tới đông đảo khán giả một cách thuận tiện và tiết kiệm hơn nhiều so với phương thức truyền thống trước đây. Internet cũng giúp thương mại hóa các sản phẩm này một cách dễ dàng hơn với chi phí thấp hơn nhiều so với thương mại truyền thống. Ví dụ, một Album nhạc khi được tải lên các website thì người sử dụng ở bất cứ nơi nào trên toàn thế giới có thể kết nối Internet đều có thể vào nghe và sao chép mà chủ sở hữu bản quyền tác phẩm không phải tốn tiền chi phí cho sản xuất, đóng gói, phân phối và marketting những chiếc đĩa CD/DVD tới những địa chỉ nhận trên thực tế. Việc phân phối cũng không gặp khó khăn từ các thủ tục hải quan hay các thủ tục xin phép phức tạp khác. Mặt khác, Internet cũng tạo điều kiện cho người sử dụng có thể truy cập, sử dụng thậm chí kinh doanh trái phép các tác phẩm này mà không trả tiền sử dụng, gây thiệt hại cho chủ sở hữu quyền tác giả. Với hàng triệu triệu người sử dụng Internet và hàng triệu Website như hiện nay, việc kiểm soát tất cả nội dung đăng tải trên tất cả các website để đảm bảo cho việc bảo hộ quyền tác giả là điều gần như không thể.

Trên thực tế, việc xác định hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với các tác phẩm trên môi trường Internet là không đơn giản. Đôi khi, việc sử dụng tác phẩm trong môi trường truyền thống được xem là không xâm phạm quyền tác giả nhưng trong môi trường số vấn đề có thể được nhìn nhận ở góc độ khác đi. Ví dụ, trong các thư viện truyền thống hiện nay, trong kho tác phẩm của thư viện bao gồm các nguồn sách do thư viện đặt mua, các nguồn sách do được tặng cho từ tổ chức, cá nhân có thể là chủ sở hữu quyền tác giả, có thể không phải chủ sở hữu quyền tác giả, các sách được nộp lưu chiểu. Các tác phẩm này được lưu giữ có thể chỉ là một bản duy nhất, có thể nhiều bản. Các độc giả đến thư viện đều được quyền tự do đọc tại chỗ, thậm chí một số trường hợp, nếu có nhiều đầu sách trên một tác phẩm, độc giả có thể mượn mang về nhà mà không bị tính phí. Thực chất trong trường hợp này, hành vi này cũng cần xem xét dưới góc độ pháp luật quyền tác giả. Tuy nhiên, trên thực tế  hiện nay, đây được xem như một hoạt động bình thường của thư viện truyền thống nhằm thực hiện chức năng của mình mà không có bất cứ một sự phản đối nào từ phía chủ sở hữu quyền tác giả hay từ cá nhân, tổ chức khác. Nếu thư viện số hóa các nguồn sách này, lưu trữ và cho phép truy cập hoặc phân phối trên Internet thì đây là hành vi xâm phạm quyền. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra, nếu vẫn từ các nguồn sách đó, thư viện số hóa và lưu trữ trên máy chủ một bản sao tác phẩm, cho phép người đọc truy cập chỉ trong mạng nội bộ của thư viện chứ không phải trên mạng Internet, không thu phí truy cập, không cho phép download thì thư viện có xâm phạm quyền sao chép và quyền truyền đạt tác phẩm tới công chúng không? Nếu hiểu theo các quy định hiện hành của pháp luật, trong trường hợp này thư viện đã vi phạm quyền sao chép và quyền truyền đạt tác phẩm tới công chúng. Còn nếu thư viện thu tiền khi người sử dụng truy cập nguồn dữ liệu này thì thư viện đã vi phạm cả quyền phân phối tác phẩm. Tuy nhiên, thư viện có chức năng, nhiệm vụ giữ gìn di sản thư tịch của dân tộc; thu thập, tàng trữ, tổ chức việc khai thác và sử dụng chung vốn tài liệu trong xã hội nhằm truyền bá tri thức, cung cấp thông tin phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu, công tác và giải trí của mọi tầng lớp nhân dân; góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển khoa học, công nghệ, kinh tế, văn hóa, phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước[11]. Nhưng trong hoạt động của mình, thư viện có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật về quyền tác giả. Thiết nghĩ, pháp luật cần có quy định cụ thể về bảo hộ quyền tác giả trong hoạt động thư viện, giải quyết được sự mâu thuẫn trong việc bảo hộ quyền tác giả trong các thư viện số với chức năng, nhiệm vụ của thư viện.

Ngoài ra, khi các hành vi xâm phạm quyền tác giả được thực hiện với sự hỗ trợ của công nghệ mới thì việc xác định càng khó khăn hơn. Trong nhiều trường hợp, pháp luật đã không theo kịp được sự phát triển của công nghệ, không điều chỉnh kịp thời những hành vi xâm phạm quyền xảy ra trên thực tế. Đặc biệt, trong trường hợp người vi phạm cố tình khai thác các tính năng của công nghệ mới để thực hiện các hành vi xâm phạm quyền tác giả ở mức độ tinh vi. Ví dụ, các website không trực tiếp lưu trữ kho tác phẩm hoặc không cho phép người sử dụng trực tiếp nghe nhạc, xem phim trực tuyến hay download tác phẩm mà chỉ đơn giản là cung cấp các đường link để người sử dụng có thể truy cập vào các kho dữ liệu này. Không phải trong mọi trường hợp, việc cung cấp các đường Link chia sẻ dữ liệu đều là sự vi pham bản quyền vì nhiều Website cho phép truy cập miễn phí. Việc xác định hành vi xâm phạm quyền trong trường hợp này là không đơn giản. Hoặc với mạng đồng đẳng (Pear to Pear) các máy tính hoàn toàn có thể chia sẻ các dữ liệu với nhau, trong trường hợp này không dễ để xác định được hành vi xâm phạm và quy trách nhiệm đối với hành vi vi phạm bản quyền.

Bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền tác giả trên Internet

Theo Điều 204 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bao gồm: (i) thiệt hại về vật chất bao gồm các tổn thất về tài sản, mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, tổn thất về cơ hội kinh doanh, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại; (ii) thiệt hại về tinh thần bao gồm các tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng và những tổn thất khác về tinh thần gây ra cho tác giả của tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; người biểu diễn… Mức độ thiệt hại được xác định trên cơ sở các tổn thất thực tế mà chủ thể quyền sở hữu trí tuệ phải chịu do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây ra.

Việc xác định mức thiệt hại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ luôn là vấn đề gặp nhiều khó khăn trên thực tế, và việc xác định thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền tác giả trong môi trường Internet còn khó khăn hơn rất nhiều. Đơn cử như trường hợp một tác phẩm điện ảnh được lưu trữ và cho phép truy cập trái phép trên mạng Internet, có thể sử dụng công cụ kỹ thuật để đếm được bao nhiêu lượt người truy cập để xem và/hoặc download tác phẩm đó một cách trái phép trên một website cụ thể. Trong trường hợp này, nếu giả định việc xem trực tuyến và/hoặc tải tác phẩm đó đã được định sẵn cho mỗi lần truy cập thì có thể tính được sơ bộ thiệt hại mà chủ sở hữu quyền tác giả bị mất trên thực tế. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là nhiều trường hợp tác phẩm được sao chép trái phép từ một website, sau đó tiếp tục được đưa lên các Website khác hoặc được các cá nhân chia sẻ với nhau. Rất khó kiểm soát được số lượng người truy cập trái phép trong trường hợp trên. Ngoài ra, cơ sở để đánh giá mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, tổn thất về cơ hội kinh doanh đối với lĩnh vực quyền tác giả cũng đặc biệt khó khăn. Vì việc sử dụng tác phẩm phụ thuộc  vào rất nhiều yếu tố, tâm lý của công chúng, khả năng thẩm thấu nghệ thuật…  Ví dụ, trường hợp tác phẩm điện ảnh “Cánh đồng bất tận”, “Bụi đời chợ lớn” bị công bố trái phép trên mạng Internet, sau đó được truyền tải rộng rãi trên mạng cũng như được phân phối dưới hình thức DVD lậu, khó mà xác định được chính xác mức thiệt hại. Bởi lẽ, không ai biết được tác phẩm này, nếu được trình chiếu ngoài rạp chiếu phim, sẽ có bao nhiêu lượt vé được bán, chiếu được trong bao lâu? Doanh thu là bao nhiêu?

Đối với thiệt hại tinh thần, trong lĩnh vực quyền tác giả, đôi khi tổn thất về tinh thần còn nặng nề hơn tổn thất vật chất, nhưng khó mà chứng minh được các tổn thất về tinh thần, Mức bồi thường thiệt hại về tinh thần tối đa cũng chỉ 50,000,000 VND là quá ít.

Việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường do hành vi xâm phạm quyền tác giả trên Internet là vấn đề không đơn giản. Trong nhiều trường hợp, chủ website dấu danh tính thật của mình. Nhiều trường hợp khác, khó xác định chủ thể xâm phạm quyền. Trách nhiệm của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian[12] trong việc bảo hộ quyền tác giả trên môi trường Internet và mạng viễn thông đối với các hành vi vi phạm quyền tác giả do người sử dụng đưa lên các trang mạng xã hội cũng là vấn đề còn gây nhiều tranh cãi tại nhiều nước với cách thức giải quyết rất khác nhau. Tại Việt Nam, theo Thông tư Liên tịch 07/2012/TTLT-BTTTT-BVHTTDL ngày 19/6/2012 quy định trách nhiệm của doanh nghiệp trung gian trong việc bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan trên môi trường mạng Internet và mạng viễn thông (Thông tư liên tịch 07/2012/TTLT-BTTTT-BVHTTDL), doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian (ISPs) có quyền thiết lập hệ thống kiểm tra, giám sát, xử lý các thông tin được đưa vào, lưu trữ, truyền đi trên mạng Internet, mạng viễn thông nhằm ngăn chặn các hành vi vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan, cũng như quyền đơn phương từ chối cung cấp dịch vụ trái quy định của pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan (quyền tác giả). Bên cạnh đó, ISPs có trách nhiệm gỡ bỏ và xóa nội dung thông tin số vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan, cắt, ngừng và tạm ngừng đường truyền Internet, đường truyền viễn thông sau khi nhận được yêu cầu bằng văn bản của thanh tra Bộ Thông tin Truyền thông hoặc thanh tra Bộ VHTTDL hoặc các cơ quan có thẩm quyền khác. Đồng thời, ISPs phải chịu trách nhiệm trực tiếp bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ và pháp luật khác có liên quan trong các trường hợp sau:

  1. a) Là nguồn khởi đầu đăng tải, truyền đưa hoặc cung cấp nội dung thông tin số qua mạng viễn thông và Internet mà không được phép của chủ thể quyền;
  2. b) Sửa chữa, cắt xén, sao chép nội dung thông tin số dưới bất kỳ hình thức nào mà không được phép của chủ thể quyền;
  3. c) Cố tình huỷ bỏ hoặc làm vô hiệu hoá các biện pháp kỹ thuật do chủ thể quyền thực hiện để bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan;
  4. d) Hoạt động như nguồn phân phối thứ cấp các nội dung thông tin số do vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan mà có[13].

Nhiều ý kiến cho rằng việc quy trách nhiệm bồi thường của ISPs trong các trường hợp trên là quá nghiêm khắc. Chỉ nên áp dụng các biện pháp này trong trường hợp chủ sở hữu website không gỡ bỏ nội dung số vi phạm bản quyền sau khi đã có kết luận của thanh tra mà không thực hiện yêu cầu đó. Pháp luật một số quốc gia cũng không quy trách nhiệm bồi thường cho ISPs.

Xác định tòa án có thẩm quyền

Việc khởi kiện ra tòa án yêu cầu bảo vệ quyền tác giả khi hành vi xâm phạm quyền tác giả xảy ra tại một nước nhưng host của website lại được đặt tại một quốc gia khác cũng là vấn đề phức tạp. Tại nhiều quốc gia, tòa án không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả trong môi trường Internet, nếu chủ sở hữu website đạt tại nước ngoài và không có chi nhánh, văn phòng đại diện hay tài sản ở quốc gia sở tại. Trong trường hợp này, cần khởi kiện tại tòa án nước ngoài. Đơn cử, trường hợp vi phạm quyền tác giả đối với tác phẩm “Gặp nhau cuối năm – Táo quân 2014” trên Internet. Tác phẩm này đã bị một số đơn vị kinh doanh mạng phát tán trái phép trên Internet, trong đó có những tên tuổi lớn như YouTube. Điều đáng nói, công ty đầu tư và phát triển an ninh công nghệ cao (CNC) đơn vị được Đài truyền hình Việt Nam – chủ sở hữu quyền tác giả tác phẩm trên ủy quyền khai thác tác phẩm, đã gửi văn bản đến hơn 100 đơn vị kinh doanh mạng thông báo về vấn đề bản quyền của chương trình. Khi phát hiện chương trình được đưa trái phép lên YouTube, CNC đã có nhiều hành động nhằm bảo vệ quyền tác giả của tác phẩm, trong đó có ý định khởi kiện ra tòa án. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là nếu chủ sở hữu quyền tác giả (đài truyền hình Việt Nam) khởi kiện tại Toà án Việt Nam thì tòa án có thẩm quyền xét xử hay không và nếu có thì phán quyết buộc YouTube (Mỹ) bồi thường cho CNC sẽ được giải quyết như thế nào? Câu hỏi tưởng chừng “phi thực tế” vì chủ thể bị xâm phạm quyền là pháp nhân Việt Nam, hành vi đưa tác phẩm lên mạng xảy ra từ Việt Nam, tác phẩm được sáng tạo tại Việt Nam và được bảo hộ bởi pháp luật Việt Nam và pháp luật của Mỹ trên cơ sở các điều ước quốc tế như Công ước Berne, hiệp đinh bản quyền giữa Việt Nam và Mỹ, Hiệp định thương mại giữa Việt Nam và Mỹ…tại sao đặt vấn đề tòa án Việt Nam có thẩm quyền hay không? Nhưng có thể khẳng định khá chắc chắn là nếu khởi kiện tại tòa án Việt Nam, tòa án sẽ từ chối thụ lý vì bị đơn không có trụ sở hay chi nhánh tại Việt Nam, không có tài sản tại Việt Nam. Nếu phán quyết của tòa án Việt Nam tuyên buộc YouTube Mỹ bồi thường thiệt hại cho chủ thể quyền thì khả năng thực thi tại Mỹ lại càng thấp hơn. Vì muốn thực thi, bên thắng kiện phải thực hiện thủ tục yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết của tòa án Việt Nam tại Mỹ và khả năng để được công nhận và cho thi hành là hầu như không vì pháp luật Mỹ đã có án lệ về vấn đề này[14]. Nếu chủ thể quyền tác giả tiến hành các thủ tục khởi kiện YouTube trên đất Mỹ, chi phí sẽ rất tốn kém và khả năng thắng là rất ít vì như đã đề cập ở trên, đã từng có phán quyết mang tính tiền lệ về vấn đề này và YouTube đã giành phần thắng.

  1. Giải pháp

Việc phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và sự đa dạng của các thiết bị có khả năng truy cập Internet, sự gia tăng sử dụng Internet đã đặt ra rất nhiều vấn đề pháp lý phức tạp trong bảo hộ quyền SHTT, đặc biệt là quyền tác giả. Mặc dù chính phủ các nước đã rất nỗ lực trong việc thiết lập khung pháp luật quốc tế cung như hoàn thiện pháp luật trong nước cho việc bảo hộ các quyền này trong môi trường số, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong thực thi quyền nhưng rõ ràng là việc đảm bảo thực thi hiệu quả các quyền này trong môi trường số không phải là vấn đề đơn giản.

Giải pháp tốt nhất cho việc bảo hộ quyền tác giả trong môi trường Internet là sử dụng kết hợp giữa các giải pháp pháp lý và giải pháp công nghệ. Một khung pháp lý đầy đủ và hiệu quả sẽ là cơ sở quan trọng cho việc bảo vệ quyền tác giả. Nhưng giải pháp công nghệ đóng vai trò không kém phần quan trọng so với giải pháp pháp lý. Nếu có thể sử dụng công nghệ để xâm phạm quyền tác giả thì ngược lại, cần sử dụng công nghệ để ngăn chặn hành vi xâm phạm quyền và bảo vệ quyền. Có nhiều giải pháp công nghệ đã được triển khai như ICOP (Illegal content obstruction program – Hệ thống quản lý sao chép lậu). Hệ thống này cho phép, bằng biện pháp kỹ thuật nhận ra những điểm đặc biệt và tìm kiếm tự động, có thể giám sát tự động các nội dung bị sao chép trên Internet và tự động yêu cầu làm giám đoạn quá trình sao chép. Một cách thức khác là sử dụng P2P, hình thức đặc biệt của Online service Provide để quản lý, báo cáo nhận dạng và lưu trữ các nội dung download. Ngoài ra, gần đây công nghệ điện toán đám mây cũng một trong những lựa chọn tốt góp phần bảo vệ các tác phẩm trên Internet một cách an toàn hơn. Trước đây, phần lớn chỉ các doanh nghiệp lớn mới có đủ ngân sách để đầu tư hạ tầng và giải pháp triển khai giải pháp CNTT bảo vệ bản quyền nội dung số. Ngày nay, với công nghệ điện toán đám mây, doanh nghiệp có thuê hạ tầng và các phần mềm hệ thống để triển khai giải pháp bảo vệ bản quyền nội dung số với chi phí đầu tư và công nghệ tốt hơn, hiệu quả hơn.

Bên cạnh các giải pháp pháp lý và công nghệ, cần tiếp tục nâng cao năng lực cho các cơ quan thực thi và tuyên truyền rộng rãi đến người sử dụng các quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ để nâng  cao ý thức bảo vệ quyền từ phía người sử dụng.  Các chủ thể quyền cần áp dụng các biện pháp công nghệ để bảo vệ quyền của mình và chủ động trong việc yêu cầu xử lý xâm phạm khi có hành vi xâm phạm quyền của mình.

===

[1] Báo cáo của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch tại Hội nghị Tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 36/2008/CT-TTg về việc tăng cường quản lý thực thi và bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan, trang 9, 10.

[2] Jung Tae Sun, Tình hình vi phạm bản quyền ở Hàn Quốc và viễn cảnh tương lai, bài tham luận tại Hội thảo “Bảo hộ bản quyền trong lĩnh vực điện ảnh và truyền hình trong môi trường số”, trang 5.

[3] Xem chi tiết tại: http://vtv.vn/Thoi-su-quoc-te/Lien-bang-Nga-chong-vi-pham-ban-quyen-tren-Internet/77181.vtv#sthash.oWyVP6cl.dpuf, truy cập ngày 20/5/2014.

[4] Điều 31(1,2) Nghị định 100/2006/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 21/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan (Nghị định 100/2006/NĐ-CP).

[5] Điều 9 Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học (Công ước Berne).

[6]  Được quy định trong Điều 7

[7] Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, Điều 9 Công ước Berne

[8] Điều 25(1(đ) Luật Sở hữu trí tuệ  và Điều 25(2) Nghị định số 100/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 85/2011/NĐ-CP và Nghị định số 01/2012/NĐ-CP (Nghị định số 100/2006/NĐ-CP)

[9] Working document containing comments on a textual suggestions towards an appropriate international legal instrument (in whatever form) on exceptions and limitations for libraries and archives, được thông qua bởi Uỷ ban Quyền Tác giả và Quyền liên quan, WIPO, tại Phiên họp thứ 26, Geneva, ngày 16-20/12/2013.

[10] Điều 25 Nghị định số 100/2006/NĐ-CP

[11] Điều 1 Pháp lệnh thư viện số 31/2000/PL-UBTVQH10 ngày 28/12/2010

[12] Dịch vụ trung gian bao gồm dịch vụ viễn thông, dịch vụ Internet, dịch vụ mạng xã hội trực tuyến, dịch vụ tìm kiếm thông tin số, dịch vụ cho thuê chỗ lưu trữ thông tin số, bao gồm cả việc cho thuê chỗ lưu trữ trang thông tin điện tử.

[13] Xem chi tiết tại Điều 5 của Thông tư

[14] Đây là án lệ liên quan đến vấn đề bản quyền giữa YouTube và tập đoàn giải trí Viacom do Tòa án Liên bang đưa ra vào ngày 23/6/2010. Phán quyết đã xác định, YouTube là một dịch vụ web mở, cho phép người dùng tự do đăng tải các nội dung khác nhau. Tuy là YouTube có chứa những đoạn video vi phạm bản quyền của Viacom, nhưng do nội dung đưa lên quá nhiều, nên YouTube không thể kiểm soát hết được. Thêm vào đó, khi nhận được thông báo của các bên nắm bản quyền, YouTube đã nhanh chóng xóa bỏ các nội dung đó.

 

Tác giả: TS Lê Thị Nam Giang (Giảng viên Trường ĐH Luật Tp.HCM, Giám đốc trung tâm sở hữu trí tuệ trường ĐH Luật Tp.HCM)
Trích dẫn nguyên văn từ: http://www.agllaw.com.vn/nhung-thach-thuc-trong-viec-bao-ho-quyen-tac-gia-trong-moi-truong-internet/
đánh giá bài viết

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền