Nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong Tố tụng dân sự

Chuyên mụcLuật tố tụng dân sự, Thảo luận pháp luật Chứng cứ trong vụ việc dân sự

Những vấn đề lý luận, nội dung, thực tiễn thực hiện nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự.

 

Những nội dung liên quan:

 

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC NGHĨA VỤ CUNG CẤP CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

Mục lục:

1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự

1.2. Cơ sở của nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự

1.3. Mối liên hệ nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh với các nguyên tắc khác của bộ luật tố tụng dân sự

1.4. Sơ lược quá trình phát triển của pháp luật việt nam về nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự từ năm 1945 đến nay

1.5. Một số khác biệt giữa quy định của pháp luật việt nam với quy định của pháp luật một số nước về nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự

Chứng cứ

1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC NGHĨA VỤ CUNG CẤP CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1.1. Khái niệm nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự

Thuật ngữ nguyên tắc (principium) được sử dụng lần đầu dưới thời La Mã cổ đại có ý nghĩa là cơ sở, cốt lõi nền tảng. Ngoài ra, theo Từ điển tiếng Việt thì nguyên tắc được hiểu theo nghĩa chung nhất là: “Điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm” [40, tr 562]. Còn theo Tudientiengviet.net thì nguyên tắc được hiểu là điều cơ bản đã được quy định để dùng làm cơ sở cho các mối quan hệ xã hội hoặc là điều cơ bản rút ra từ thực tế khách quan để chỉ đạo hành động.

Như vậy, theo nghĩa chung nhất, nguyên tắc được hiểu là điều cơ bản, cốt lõi đã được định ra hoặc được quy định mang tính chỉ đạo bắt buộc phải tuân theo trong những lĩnh vực hoạt động nhất định của con người. Do vậy, bất kỳ hoạt động có mục đích nào muốn đạt được kết quả đòi hỏi những người tham gia hoạt động phải xác định được các nguyên tắc hoạt động và tuân thủ triệt để nó. Hoạt động TTDS là một dạng hoạt động thực tiễn, có tính khoa học, do vậy cũng phải tuân theo những nguyên tắc nhất định.

Đối với một ngành luật thì nguyên tắc là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, định hướng cho hoạt động xây dựng và thực hiện quy định của nó. Tuy nhiên các tư tưởng pháp lý này chỉ có giá trị bắt buộc nếu được thể hiện dưới hình thức quy phạm pháp luật. Do vậy, các nguyên tắc của một ngành luật  thường được thể hiện trong các văn bản pháp luật về ngành luật đó làm cơ sở cho việc thực hiện và được quy định dưới dạng quy phạm chung. Luật TTDS là một ngành luật của hệ thống pháp luật Việt Nam nên cũng mang những đặc điểm chung đó. Nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật TTDS. Vì vậy mà nó cũng được hiểu là “những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật tố tụng dân sự và được ghi nhận trong các văn bản pháp luật tố tụng dân sự ” [35, tr. 36].

Trong một vụ án dân sự thường chứa đựng những mâu thuẫn nhất định giữa các bên đương sự nên rất phức tạp. Để giải quyết được vụ việc dân sự thì mọi vấn đề của vụ việc dân sự dù ai nêu ra cũng đều phải được làm rõ trước khi Tòa án quyết định giải quyết vụ việc dân sự. Nhưng để giải quyết được vụ việc dân sự đúng pháp luật, khách quan thì Tòa án và những chủ thể tham gia tố tụng khác cần phải chứng minh được những tình tiết trong vụ án là “có thật, là đúng bằng sự việc hoặc bằng lý lẽ” [11, tr. 192]. Do chứng minh là hoạt động có tính chất chi phối kết quả giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án nên có nội hàm rất rộng. Bản chất của hoạt động chứng minh của các chủ thể tố tụng không chỉ thể hiện ở chỗ xác định các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự mà còn thể hiện ở chỗ phải làm cho mọi người “thấy rõ là có thật, là đúng”. Do vậy, các phương thức được các chủ thể chứng minh sử dụng để chứng minh trong TTDS cũng rất đa dạng. Nhưng để thực hiện được mục đích, nhiệm vụ của chứng minh, các chủ thể chứng minh bao giờ cũng phải chỉ ra được tất cả các căn cứ pháp luật và thực tiễn liên quan đến vụ việc dân
sự.

Quá trình chứng minh được diễn ra xuyên suốt trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Hoạt động chứng minh trong quá trình Tòa án giải quyết việc dân sự bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của các chủ thể tố tụng. Trong đó, hoạt động nghiên cứu và đánh giá chứng cứ tại phiên tòa của các chủ thể mang tính quyết định.

Do đó:

Trên thực tế, hoạt động chứng minh diễn ra dưới dạng cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ là cơ bản và do các đương sự thực hiện là chủ yếu. Vì vậy, chứng minh thường được hiểu theo nghĩa là hoạt động cung cấp chứng cứ, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ và chủ thể có nghĩa vụ chứng minh chỉ là  đương sự [35, tr. 135].

Nhưng hoạt động chứng minh không chỉ dừng lại ở đó mà nó còn là việc chỉ ra cơ sở pháp lý đối với yêu cầu của đương sự. Như vậy, chứng minh trong TTDS là hoạt động tố tụng của các chủ thể tố tụng theo quy định của pháp luật trong việc làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự.

Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, trong các vụ việc dân sự được Tòa án giải quyết có rất nhiều tình tiết, sự kiện mà quan hệ pháp luật giữa các bên đương sự phụ thuộc vào nó. Những tình tiết, sự kiện này thường xảy ra trước khi có đơn kiện đến Tòa án nhưng để giải quyết được vụ việc dân sự vẫn phải làm rõ chúng. Trong mối liên quan chung và qua lại giữa các tình tiết, sự kiện, không tình tiết sự kiện nào xảy ra trên thực tế lại không có mối liên hệ với các tình tiết, sự kiện khác; không tình tiết, sự kiện nào xảy ra lại không để lại tin tức, dấu vết. Tin tức, dấu vết của một tình tiết, sự kiện có thể được ghi lại trong trí nhớ của những người trực tiếp chứng kiến tình tiết, sự kiện hoặc để lại dấu vết trên các tài liệu, đồ vật. Do vậy, mặc dù chúng đã xảy ra trước khi có đơn kiện đến Tòa án người ta vẫn có thể biết về chúng. Để xác định được các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự Tòa án phải nghe lời trình bầy của đương sự, người làm chứng là những người trực tiếp tham gia hoặc chứng kiến và xem xét các tài liệu, đồ vật có chứa đựng các tin tức, dấu vết, sự kiện.

Trong TTDS, những tin tức, dấu vết về các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự được thể hiện dưới những hình thức nhất định do Tòa án sử dụng làm cơ sở để giải quyết vụ việc dân sự được gọi là chứng cứ. Do vậy, nếu hiểu theo nghĩa chung, chứng cứ là cái có thật mà căn cứ vào đó để Tòa án giải quyết vụ việc dân sự. Tuy vậy, hoạt động tố tụng cung cấp, giao nộp, xem xét, đánh giá và sử dụng chứng cứ thường bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố khác nhau. Để đảm bảo việc giải quyết các vụ việc dân sự được đúng đắn thì các hoạt động tố tụng này phải được pháp luật quy định đầy đủ và chặt chẽ. Từ đó, chứng cứ được định nghĩa như sau:

Chứng cứ là cái có thật, theo một trình tự do luật định Tòa án dùng làm căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự.

Chứng cứ có thể là những tin tức, dấu vết liên quan đến các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự, được Tòa án sử dụng làm căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự. Song để mọi người có thể nhận thức được thì chúng phải được ghi lại, phản ánh lại dưới những hình thức cụ thể như bản hợp đồng, bản di chúc, băng ghi âm, đĩa ghi hình… Từ điều này, trên thực tế thường có cách hiểu chứng cứ trong vụ việc dân sự là những phương tiện phản ánh lại chúng như bản hợp đồng, bản di chúc đó, băng ghi âm, ghi hình đó… Như vậy, ở đây đã coi là chứng cứ cả những sự kiện dựa vào đó Tòa án xác định các tình tiết của vụ việc dân sự và những phương tiện phục vụ cho việc xác định những tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự. Nghĩa là chứng cứ bao gồm cả sự kiện có thật và phương tiện chứng minh. Nhưng nếu suy cho cùng những phương tiện đó chẳng qua là chỉ hình thức biểu hiện bên ngoài của chứng cứ. Để giải quyết được vụ việc dân sự, Tòa án phải căn cứ vào những tin tức, dấu vết về các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự được phản ánh trong các phương tiện đó nên nó mới là chứng cứ.

Nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh được quy định trong BLTTDS được kế thừa từ các quy định trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh tế năm 1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp lao động năm 1996. Tuy nhiên, các pháp lệnh này đã đồng nhất nghĩa vụ chứng minh với nghĩa vụ cung cấp chứng cứ. Việc đồng nhất hai nghĩa vụ này với nhau là không có cơ sở bởi việc cung cấp chứng cứ chỉ là một phần trong hoạt động chứng minh. Quy định như vậy sẽ không nhận thức được đầy đủ về vai trò chứng minh của đương sự cũng như không thể tạo ra những cơ chế hữu hiệu để đương sự có thể hoàn thành được nghĩa vụ của mình, ảnh hưởng đến các quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Nguyên nhân là các pháp lệnh này còn quy định vai trò của Tòa án trong việc điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ của vụ án. Chính vì vậy mà trong một thời gian dài vai trò thu thập, cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự trong việc giải quyết vụ án không được đề cao.

Khắc phục những hạn chế trước đây, BLTTDS và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS đã bỏ trách nhiệm điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ trong vụ việc dân sự của Tòa án mà quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự thành một nguyên tắc và cụ thể hóa tại Điều 6 BLTTDS. Như vậy, với quy định của Điều 6 BLTTDS thì đương sự đưa ra yêu cầu sẽ phải chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Yêu cầu ở đây được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả yêu cầu về sự công nhận là đúng, là có lý và cả yêu cầu công nhận là không đúng, không có lý hay nói cách khác yêu cầu ở đây chính là đề ra đối tượng chứng minh. Khi nguyên đơn đưa ra yêu cầu bằng cách khởi kiện thì họ có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, bị đơn đưa ra yêu cầu bác bỏ ý kiến của nguyên đơn thì họ có cũng có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh cho việc bác bỏ đó là có căn cứ, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập cũng phải đưa ra chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Tuy nhiên đối với những vụ án mà cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của người khác thì quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh thuộc về các cơ quan tổ chức khởi kiện mà không thuộc về người được khởi kiện.

Đồng thời với nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh thì đương sự sẽ phải chịu hậu quả pháp lý. Hậu quả pháp lý này là việc được Tòa án công nhận quyền và lợi ích hợp pháp khi đương sự thực hiện một cách đầy đủ và chính xác nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh. Ngược lại sẽ phải chịu hậu quả bất lợi khi không đưa ra được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình hoặc yêu cầu của người khác đối với mình.
Thấy được vai trò quan trọng, quyết định của chứng cứ trong việc chứng minh cho yêu cầu của đương sự là có căn cứ và hợp pháp nên bên cạnh quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh thuộc trách nhiệm của đương sự đưa ra yêu cầu thì BLTTDS còn quy định các trường hợp Tòa án tự xác minh, thu thập chứng cứ và trường hợp Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ theo yêu cầu của đương sự.
Ngoài ra, Tòa án, Viện kiểm sát có thể trực tiếp hoặc bằng văn bản yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ cung cấp chứng cứ cho mình và trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu thì cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ chứng cứ có nghĩa vụ cung cấp cho Tòa án, Viện kiểm sát chứng cứ mà mình đang lưu giữ. Nếu không cung cấp được đầy đủ, kịp thời chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án, Viện kiểm sát mà không có lý do chính đáng thì tùy theo mức độ vi phạm có thể xử lý theo pháp luật.
Như vậy, nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS là nguyên tắc cơ bản của TTDS, theo đó đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện vì lợi ích của người khác phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và đúng pháp luật; Tòa án chỉ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp pháp luật quy định.

1.1.2. Ý nghĩa nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự

Nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh là một trong những nguyên tắc cơ bản, quan trọng của BLTTDS. Ngoài ý nghĩa chung là cơ sở để xây dựng và thực hiện các quy phạm pháp luật TTDS thì nguyên tắc này còn có các ý nghĩa riêng sau đây:

Thứ nhất, nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh TTDS đã ghi nhận cả quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự khi Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, là công cụ quan trọng để đương sự dựa vào đó để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như chống lại những yêu cầu, đòi hỏi vô lý của người khác đối với mình. Ngoài ra, nguyên tắc này còn quy định trách nhiệm về nghĩa vụ của các cá nhân, cơ quan, tổ chức phải giao nộp chứng cứ mà mình đang nắm giữ cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát khi có yêu cầu và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu cung cấp không đúng, không đầy đủ, không kịp thời. Tại Điều 7 BLTTDS quy định “Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát các tài liệu, chứng cứ và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp chứng cứ, tài liệu đó…” [21]. Điều này có ý nghĩa vô cùng to lớn, góp phần làm cho việc giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng, khách quan toàn diện, đảm bảo được quyền và lợi ích chính đáng của các bên.

Thứ hai, bên cạnh việc bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của đương sự, nguyên tắc này còn có ý nghĩa xác định trách nhiệm của Tòa án, trong việc xác minh, thu thập chứng cứ. Điều 94 BLTTDS quy định “Trong trường hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn…” [21]. Theo quy định này, thì Tòa án có trách nhiệm thu thập chứng cứ khi đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà việc thu thập chứng cứ không có kết quả và họ có đơn yêu cầu Tòa án thu thập. Tuy nhiên để Tòa án thu thập chứng cứ thì đương sự phải làm đơn trong đó nêu rõ thu thập chứng cứ gì, ai đang nắm giữ. Ngoài ra, đương sự còn phải chứng minh mình đã áp dụng những biện pháp gì để thu thập chứng cứ nhưng không đạt kết quả.

Nguyên tắc còn xác định, khi thu thập chứng cứ, Tòa án chỉ thu thập chứng cứ trong phạm vi yêu cầu của đương sự, không vượt quá yêu cầu này. Ngoài việc đương sự có yêu cầu thì khi thấy cần thiết, Tòa án, Viện kiểm sát có thể trực tiếp hoặc bằng văn bản yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ cung cấp chứng cứ cho mình.

Thứ ba, nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS là cơ sở để quy định chế tài đối với các cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ khi cung cấp không đầy đủ, kịp thời chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án, Viện kiểm sát. Chính quy định này đã góp phần làm cho việc thu thập chứng cứ được tiến hành thuận lợi, góp phần giải quyết nhanh chóng vụ việc dân sự. Tại khoản 2 Điều 94 BLTTDS quy định
Cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ  có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án, Viện kiểm sát trong hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; trường hợp không cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ  theo yêu cầu của Tòa án, Viện kiểm sát thì tùy theo mức độ vi phạm có thể bị xử lý theo quy định của pháp luật [21].

Thứ tư, nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS góp phần bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự được khách quan, đúng đắn. Hoạt động xét xử có vai trò rất lớn trong việc ổn định trật tự pháp luật, giữ vững kỷ cương phép nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân… Tuy nhiên, hoạt động này chỉ phát huy được tác dụng khi ra bản án công bằng, hợp tình hợp lý, muốn vậy phải có đầy đủ chứng cứ và chứng minh làm rõ các tình tiết của vụ việc dân sự. Do vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu nội dung nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS không chỉ có ý nghĩa quan trọng, thiết thực đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng mà còn rất cần thiết đối với các đương sự và Luật sư. Bởi đây chính là điều cốt lõi để đương sự bảo vệ được quyền lợi của mình, phản bác yêu cầu vô lý, trái pháp luật của người khác. Đối với Tòa án, việc tìm hiểu, nghiên cứu nguyên tắc này sẽ góp phần giảm thiểu những sai sót trong quá trình thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ và như vậy sẽ góp phần tuyên bản án thấu tình, đạt lý, đảm bảo ổn định các quan hệ xã hội.

1.2. CƠ SỞ CỦA NGUYÊN TẮC NGHĨA VỤ CUNG CẤP CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.2.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự

Trong cuộc sống, con người có rất nhiều nhu cầu phục vụ cho bản thân, để thỏa mãn các nhu cầu đó chỉ có thể thông qua các giao dịch dân sự. Nói như C. Mác thì “Con người trước hết phải ăn uống ở và mặc rồi mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật” [8, tr. 475]. Tuy nhiên, khi thỏa mãn các nhu cầu của mình thông qua các giao dịch dân sự thì không phải giao dịch nào cũng diễn ra tốt đẹp, đạt kết quả như mong muốn mà sẽ có những giao dịch xảy ra tranh chấp. Khi có tranh chấp xảy ra giữa các bên thì một hoặc cả hai bên cùng yêu cầu Tòa án giải quyết. Đồng nghĩa với yêu cầu đó là việc một bên cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi hành vi vi phạm pháp luật của bên kia. Cùng với việc khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm thì nguyên đơn phải xuất trình chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và đúng pháp luật. Ngược lại bên bị đơn cũng có quyền phản đối yêu cầu của nguyên đơn và cũng có quyền xuất trình chứng cứ chứng minh rằng yêu cầu của nguyên đơn là không có căn cứ pháp luật, thậm chí họ còn có quyền phản tố đối với yêu cầu của nguyên đơn. Như vậy để bảo vệ quyền lợi của mình, các bên đã chủ động, tích cực tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc dân sự bằng việc chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Do đó, pháp luật phải ghi nhận quyền cũng như nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự để làm cơ sở cho đương sự chủ động, tích cực trong việc phát hiện, thu thập, cung cấp chứng cứ. Đây là tiền đề lý luận quan trọng trong việc quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh thành một nguyên tắc cơ bản, đặc trưng trong BLTTDS.
Mặt khác, việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn đặt ra yêu cầu phải bảo đảm quyền bình đẳng trong tham gia tố tụng giữa các đương sự. Trước hết, các đương sự phải được bình đẳng với nhau trong việc thu thập, xuất trình chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình hoặc phản đối yêu cầu của bên kia, thậm chí đương sự có quyền biết và được sao chụp chứng cứ, tài liệu do bên kia cung cấp. Nhưng để đương sự có thể thực hiện được quyền này thì pháp luật phải có quy định nhằm giúp đương sự thực hiện tốt các quyền này. Đương sự sẽ xuất trình chứng cứ cho Tòa án những chứng cứ mà họ đang lưu giữ, còn đối với chứng cứ do cá nhân, cơ quan, tổ chức nắm giữ thì họ có quyền yêu cầu những người này cung cấp cho họ. Nếu đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà vẫn không thu thập được chứng cứ thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ cho họ. Nhưng để đương sự thực hiện được các quyền này thì pháp luật phải ghi nhận. Chính vì vậy mà pháp luật TTDS cần phải đặt ra nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh.
Chứng cứ và chứng minh có vai trò quyết định trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Có thể nói, nếu không có chứng cứ thì không thể có được bản án với phán quyết đúng đúng sự thật, đúng pháp luật và khách quan. Với vai trò quan trọng của chứng cứ như vậy cho nên về thực chất mọi hoạt động TTDS đều hướng đến việc cung cấp, thu thập, sử dụng, đánh giá chứng cứ. Nhưng để các hoạt động này diễn ra đúng pháp luật, khách quan, công bằng thì phải được quy định bằng một nguyên tắc riêng trong BLTTDS, từ đó được cụ thể hóa ra thành các điều luật. Nhờ đó các chủ thể trong TTDS biết quyền và nghĩa vụ của mình đến đâu trong việc cung cấp, thu thập, sử dụng, đánh giá chứng cứ. Giúp việc giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng, công bằng, đúng pháp luật.

1.2.2. Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự

Trong điều kiện thực tiễn hiện nay, trình độ hiểu biết pháp luật của người dân còn nhiều hạn chế; các cơ quan, tổ chức còn nhiều thủ tục hành chính rườm rà; chưa có luật thông tin cho người dân nên việc người dân tự đi thu thập chứng cứ là rất khó khăn. Mặt khác, việc thu thập chứng cứ ảnh hưởng quyết định đến việc chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nên bên cạnh việc quy định trách nhiệm cung cấp chứng cứ và chứng minh thuộc về đương sự thì pháp luật cũng cần có quy định các cá nhân, cơ quan, tổ chức nắm giữ chứng cứ phải cung cấp cho đương sự các chứng cứ, tài liệu theo yêu cầu của họ. Nếu cung cấp không đầy đủ, kịp thời thì tùy từng mức độ sẽ bị xử lý theo quy định tại Điều 94 BLTTDS. Như vậy, với quy định này sẽ giúp người dân thuận lợi hơn trong quá trình đi thu thập chứng cứ cũng như xác định rõ trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ chứng cứ. Điều này là hoàn toàn phù hợp với thực tế hiện nay của nước ta.

Nghĩa vụ chứng minh trong TTDS khác cơ bản với việc chứng minh trong tố tụng hình sự ở chỗ: trong tố tụng hình sự khi có tội phạm xảy ra thì việc chứng minh tội phạm là trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Còn trong TTDS thì việc chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và đúng pháp luật thuộc nghĩa vụ của bên đề ra yêu cầu. Việc quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự xuất phát từ nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự đối với việc khởi kiện của mình. Cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của đương sự. Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích của mình thì phải chứng minh yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Ngược lại, nếu đương sự phản đối yêu cầu của người khác thì cũng phải xuất trình chứng cứ chứng minh cho phản đối của mình là có căn cứ. Như vậy người đưa ra yêu cầu thì phải có nghĩa vụ chứng minh trước, họ phải xuất trình các chứng cứ, lý lẽ để chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và phải chỉ ra được quy định của pháp luật chấp nhận yêu cầu của họ là hợp pháp. Khi bên đưa ra yêu cầu đã chứng minh được tính có căn cứ và hợp pháp cho yêu cầu của mình thì bên phản đối phải đưa ra chứng cứ để chứng minh phản đối của mình là có căn cứ. Điều này có nghĩa rằng, theo quy định của BLTTDS thì nghĩa vụ chứng minh không chỉ đặt ra với bên khởi kiện mà đặt ra với cả bên bị kiện và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Quy định này thể hiện sự bình đẳng, ngang bằng về nghĩa vụ chứng minh, không đương sự nào được miễn trừ nghĩa vụ chứng minh. Và nó thể hiện rõ ràng nguyên tắc của TTDS là tự quyết, bình đẳng, các đương sự có yêu cầu thì phải chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ, không ai có thể làm thay họ.

Ngoài ra, trong vụ việc dân sự, đương sự là người hơn ai hết hiểu rõ nội dung vụ việc như thế nào, cần có chứng cứ gì để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Bởi họ chính là chủ thể tham gia trực tiếp vào các giao dịch dân sự đang tranh chấp. Tòa án chỉ có thể nhận thức được nội dung vụ án thông qua những chứng cứ, trình bầy của đương sự. Hơn nữa, họ là người hiểu vụ án nên có thể tiếp cận một cách dễ dàng các chứng cứ đang có trong tay hoặc phải lấy chứng cứ ở đâu khi có yêu cầu nên quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh cho đương sự là hợp lý.

Trước khi có BLTTDS thì Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quy định việc điều tra, thu thập chứng cứ thuộc trách nhiệm của Tòa án, điều này dẫn đến việc các đương sự không những không chủ động tích cực cung cấp chứng cứ cho Tòa án để giải quyết vụ án được nhanh chóng, kịp thời mà còn có biểu hiện chống đối, giấu giếm chứng cứ khi Tòa án yêu cầu cung cấp. Hơn nữa việc quy định như vậy dẫn đến việc Tòa án phải làm thay việc của đương sự nên dẫn đến sự quá tải trong công việc, làm cho thời gian giải quyết vụ việc dân sự bị quá hạn, án tồn đọng nhiều. Ngoài ra, việc quy định Tòa án có trách nhiệm điều tra xác minh vụ việc dân sự có thể dẫn đến việc Tòa án lạm quyền, điều tra theo ý chủ quan của mình dễ dẫn đến tiêu cực. Do đó, việc quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh là của đương sự đã giải quyết được phần nào những bất cập này và phù hợp với thực tiễn cuộc sống.

1.3. MỐI LIÊN HỆ NGUYÊN TẮC NGHĨA VỤ CUNG CẤP CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH VỚI CÁC NGUYÊN TẮC KHÁC CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.3.1. Mối liên hệ với nguyên tắc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong tố tụng dân sự

Nhà nước đại diện cho lợi ích của các giai cấp trong xã hội nên các quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể được Nhà nước bảo vệ. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể này ngoài việc được quy định trong pháp luật thì Nhà nước còn thực hiện các biện pháp cần thiết khác để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể được thực hiện trên thực tế. Việc Tòa án xét xử buộc một người phải chấm dứt hành vi vi phạm và phải bồi thường cho người bị xâm hại là một trong nhiều biện pháp mà Nhà nước dùng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp có nội dung chủ yếu là các chủ thể có lợi ích bị xâm phạm có quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích hợp pháp cho mình. Điều này có mối liên hệ mật thiết với nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh ở chỗ, các đương sự khi đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà không thu thập được chứng cứ do người khác nắm giữ có quyền yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.

1.3.2. Mối liên hệ với nguyên tắc đương sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự

Nguyên tắc đương sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ là nguyên tắc bắt buộc, giúp cho việc giải quyết vụ việc dân sự được khách quan, đúng pháp luật. Việc bình đẳng giữa các đương sự về quyền và nghĩa vụ được thể hiện, bên này được đưa ra yêu cầu chứng cứ, lý lẽ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì bên kia phải được đưa ra yêu cầu, chứng cứ, lý lẽ để bảo vệ quyền và lợi ích của họ.

Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS là tiền đề để đương sự bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình. Giữa hai nguyên tắc này có mối liên hệ hai chiều mật thiết. Nguyên tắc này thực hiện sẽ tác động tới nguyên tắc kia và ngược lại. Theo nguyên tắc đương sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng thì các đương sự có quyền bình đẳng với nhau trong các quyền: khởi kiện, hòa giải, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án. Còn các đương sự bình đẳng nhau trong việc cung cấp chứng cứ và chứng minh là quyền mang nội hàm nhỏ hơn và nằm trong nguyên tắc đương sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.

1.3.3. Mối liên hệ với nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự

Quyền tự định đoạt của đương sự là quyền của đương sự trong việc tự quyết định về quyền và lợi ích của mình và lựa chọn biện pháp pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngoài ra, nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự còn có nội dung là đương sự có quyền tự quyết định việc tham gia tố tụng, tự quyết định nội dung của yêu cầu, quyền thỏa thuận với nhau, quyền hòa giải…Như vậy, trong mối liên hệ chúng ta có thể thấy quyền định đoạt của đương sự bao gồm cả quyền đưa ra chứng cứ và chứng minh. Theo cách phân chia của PGS. TS Phạm Hữu Nghị, thì “quyền tự định đoạt của đương sự bao gồm: quyền khởi kiện, quyền đưa ra chứng cứ, bổ sung chứng cứ và chứng minh; quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu và rút đơn khởi kiện; quyền thương lượng, hòa giải” [10, tr. 39-40]. Như vậy, theo quan điểm trên thì chứng cứ và chứng minh là một nội dung của quyền tự định đoạt của đương sự. Còn theo TS. Nguyễn Ngọc Khánh thì “quyền tự định đoạt của đương sự bao gồm: quyền đưa ra các yêu cầu khởi kiện; quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; quyền rút đơn khởi kiện; quyền hòa giải; quyền kháng cáo phúc thẩm” [7, tr. 65-68]. Do đó có thể thấy giữa quyền tự định đoạt của đương sự có mối liên hệ chặt chẽ, bao trùm lên quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS.

1.3.4. Mối liên hệ với nguyên tắc tranh luận trong tố tụng dân sự

Việc tranh luận trong TTDS có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc giải quyết vụ việc dân sự. Bởi thông qua tranh luận, các chứng cứ, tình tiết, lý lẽ sẽ được các bên làm sáng tỏ, giúp Hội đồng xét xử có cái nhìn khách quan, toàn diện, đa chiều về một tình tiết để từ đó đưa ra phán quyết công bằng, đúng pháp luật.

Tuy nhiên, điểm mấu chốt của tranh luận tại phiên tòa là việc thu thập, xuất trình, sử dụng và đánh giá chứng cứ. Các bên có quyền bình đẳng với nhau trong tranh luận cũng có nghĩa là bình đẳng trong việc thu thập, xuất trình, sử dụng và đáng giá chứng cứ. Một chứng cứ có quan trọng đến đâu nếu không được sử dụng tại phiên tòa thông qua tranh luận để làm sáng tỏ nội dụng vụ việc thì cũng không có giá trị. Nên nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh là nội dung còn nguyên tắc tranh luận trong tố tụng là hình thức để các bên đương sự và Hội đồng xét xử sử dụng để làm rõ các tình tiết, xác định sự thật khách quan của vụ án.

1.4. SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ NGUYÊN TẮC NGHĨA VỤ CUNG CẤP CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY

1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989

Ngày 02/9/1945 nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong xã hội Việt Nam nói chung và nền tư pháp nói riêng. Tuy chính quyền cách mạng còn non trẻ nhưng đã nhận thức được tầm quan trọng của quản lý xã hội bằng pháp luật nên mặc dù việc lập pháp còn nhiều khó khăn nhưng Hồ Chủ tịch đã ký Sắc lệnh số 90/SL ngày 10/10/1945 cho phép tiếp tục áp dụng luật lệ của chế độ cũ không trái với bản chất của Nhà nước cách mạng nhưng Sắc lệnh này chỉ đề cập đến việc áp dụng pháp luật nội dụng của chế độ cũ mà không đề cập đến việc có tiếp tục áp dụng các quy định về hoạt động tố tụng hay không.
Năm 1946 Hiến pháp đầu tiên của nước ta được ban hành, cũng trong năm đó Hồ Chủ tịch đã ký một loạt Sắc lệnh đặt nền móng cho việc ra đời ngành Tòa án như: Sắc lệnh 13/SL ngày 24/01/1946 về tổ chứa các Tòa án và các ngạch thẩm phán; Sắc lệnh 16/SL ngày 17/4/1946 qui định về thẩm quyền của Tòa án các cấp; Sắc lệnh 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và tố tụng…

Ngày 05/12/1957, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 141/HCTP quy định về tổ chức và phân công trong nội bộ Tòa án, trong đó quy định: ” Những vụ án dân sự, ông Chánh án có trách nhiệm điều tra, lập hồ sơ vụ án…”
[1]. Như vậy, việc thu thập chứng cứ trong giai đoạn đầu tiên hình thành chế định điều tra vụ án dân sự đã được xác định, nghĩa vụ thu thập chứng cứ, lập hồ sơ vụ án thuộc về Tòa án mà đại diện là Chánh án.

Năm 1959 Hiến pháp thứ hai ra đời, sau đó năm 1960 Quốc hội ban hành Luật tổ chức TAND và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Điều 1 Luật tổ chức Tòa án quy định: “Các Tòa án nhân dân là những cơ quan xét xử của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tòa án nhân dân xét xử vụ án hình sự và dân sự trừng trị kẻ phạm tội và giải quyết những việc tranh chấp về dân sự trong nhân dân” [14].

Tại Thông tư số 2386/NCPL ngày 19/12/1961 của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) hướng dẫn các Tòa án địa phương chỉ rõ:
Trong bản án sơ thẩm phải chỉ ra nguyên đơn yêu cầu giải quyết những vấn đề cụ thể gì và nêu ra những bằng chứng gì làm căn cứ, ý kiến của bị đơn đối với những lời thỉnh cầu của nguyên đơn: có chấp nhận hay không lời thỉnh cầu đó hoặc chỉ chấp nhận đến mức nào thôi, dẫn những bằng chứng gì là căn cứ cho những ý kiến đó [25].

Theo Mục II Thông tư số 03/NCPL ngày 30-1-1962 của TANDTC hướng dẫn về trình tự giải quyết các vụ án ly hôn thì việc điều tra về tình hình tình cảm lại là một công tác khó khăn, phức tạp. Do đó, phải thực sự cầu thị và khách quan trong việc điều tra, phải nắm vững tinh thần của luật là chống những tàn tích của chế độ phong kiến về hôn nhân, gia đình và phải cố gắng cải thiện quan hệ vợ chồng. Về tổ chức phải dựa vào các đoàn thể quần chúng. Nội dung điều tra phải nhằm vào bốn điểm, đó là:

– Tích chất của cuộc hôn nhân (tự do lấy nhau hay bị ép buộc); quá trình chung sống và đối xử với nhau…;

– Động cơ xin ly hôn của người kiện và động cơ đoàn tụ của người bị kiện;

– Tình hình con cái và tài sản;

– Gia đình, đoàn thể, thôn xóm, chính quyền địa phương đã giúp đỡ hòa giải như thế nào, ý kiến của đoàn thể và dư luận của nhân dân hiện nay.

… Nhận được đơn xin ly hôn, Tòa án tiến hành điều tra sơ bộ ngay để nắm tình hình và bắt tay vào việc hòa giải kịp thời. Trong quá trình hòa giải sẽ bổ sung tài liệu điều tra.

Đề án năm 1964 của TANDTC về hướng tổ chức các Tòa án địa phương quy định cụ thể về nghĩa vụ chứng minh của đương sự: Trong các vụ kiện về dân sự, các bên đương sự có trách nhiệm chứng minh các yêu cầu của mình và đề xuất chứng cứ. Nếu các chứng cứ do các bên đương sự xuất trình chưa đầy đủ thì Tòa án sẽ yêu cầu họ xuất trình các chứng cứ bổ sung… Các đương sự có quyền đề xuất những yêu cầu và có nhiệm vụ trình bầy những chứng cứ, lý lẽ để chứng minh những yêu cầu và bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình [26].

Như vậy, bước đầu pháp luật đã quy định việc đương sự đưa ra yêu cầu thì phải xuất trình chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ.

Thông tư số 06/TATC ngày 25/02/1974 của TANDTC hướng dẫn điều tra trong TTDS nêu rõ:
Các đương sự có quyền đề xuất những yêu cầu và bảo vệ những quyền lợi hợp pháp của mình… trong điều kiện hiện nay, trình  độ hiểu biết pháp luật và trình độ văn hóa của đại đa số đương sự còn  thấp, các đơn kiện và lời trình bầy của họ không rõ ràng và đầy đủ, cho nên các Tòa án phải tích cực giúp đỡ cho các đương sự hiểu rõ những quyền lợi hợp pháp của họ để họ có thể đề xuất được những yêu cầu và giúp họ biết đề xuất những chứng cứ để chứng minh [27].

Với quy định này đương sự sẽ là chủ thể chứng minh cho yêu cầu của mình, Tòa án chỉ hướng dẫn họ hiểu rõ quyền lợi của mình để xuất trình chứng cứ chứng minh cho yêu cầu đó cũng như hỗ trợ họ thu thập chứng cứ để chứng minh.

Việc quy định các đương sự đưa ra yêu cầu thì có nghĩa vụ chứng minh yêu cầu đó là hợp pháp nhưng với tính chất là TAND, khi xét xử phải khách quan, toàn diện, áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để làm sáng tỏ sự thật của vụ án, bảo vệ quyền lợi của các đương sự nên trong Bản hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự kèm Thông tư 96-NC/PL ngày 08/02/1977 của TANDTC hướng dẫn “để bảo vệ quyền lợi của mình các đương sự có nhiệm vụ đề xuất chứng cứ nhưng Tòa án nhân dân không được phép chỉ dựa vào lời khai của đương sự và giấy tờ mà họ xuất trình làm căn cứ cho việc xét xử mà phải dùng mọi biện pháp cần thiết để làm sáng tỏ sự thật của vụ án” [28].

1.4.2. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004

Năm 1989, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, tiếp sau đó là Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh tế năm 1994 và Pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp lao động năm 1996. Đây là những lần pháp điển hóa quy mô của pháp luật TTDS Việt Nam. Cả ba pháp lệnh này đã bước đầu khắc phục được tính tản mạn của các quy phạm pháp luật TTDS, từng bước hệ thống hóa để hoạt động tố tụng chặt chẽ hơn. Tuy nhiên ba pháp lệnh này đã tách việc giải quyết các vụ việc dân sự thành ba loại án khác nhau với những thủ tục giải quyết khác nhau đã gây khó khăn cho đương sự và Tòa án. Việc thu thập chứng cứ và chứng minh có phần thuộc trách nhiệm của Tòa án nên dẫn đến việc các vụ án tranh chấp kéo dài, tồn đọng án do Tòa phải gánh thay đương sự nghĩa vụ cung cấp chứng cứ. Điều 3 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quy định rõ về nghĩa vụ cung cấp, thu thập chứng cứ: “Đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích của mình. Tòa án có nhiệm vụ xem xét mọi tình tiết của vụ án và khi cần thiết có thể thu thập thêm chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác” [36]. Với quy định này, thì Tòa án đã gánh thay nghĩa vụ chứng minh của đương sự. Điều này mâu thuẫn với các nguyên tắc lớn của TTDS đó là quyền tự định đoạt và nghĩa vụ chứng minh của đương sự. Theo đó, người khởi kiện vụ án dân sự có quyền rút đơn khởi kiện, thay đổi nội dung đơn kiện. Các đương sự có quyền hòa giải với nhau; đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình…

Tại khoản 3 Điều 20 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự xác định: “Các đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ…” [36].

Tuy nhiên, khi Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh tế ra đời thì nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự đã được quy định cụ thể, rõ ràng hơn và được thể hiện là một nguyên tắc, tại Điều 3 của pháp lệnh quy định: “Đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh để bảo vệ quyền lợi của mình” [37]. Nguyên tắc này đã tạo cơ sở quan trọng để đương sự chủ động thực hiện quyền, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của mình. Tương tự như vậy, tại Điều 20 quy định về quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh tế quy định:

…2) Các đương sự có quyền:

a) Đưa ra tài liệu, chứng cứ, được đọc, sao chép và xem các tài liệu, chứng cứ do bên đương sự khác cung cấp;
e) Tranh luận tại phiên tòa
3) Đương sự có nghĩa vụ
a) Cung cấp đầy đủ, kịp thời các tài liệu, chứng từ có liên quan theo yêu cầu của Tòa án [37].

Như vậy, đương sự có quyền và nghĩa vụ thu thập chứng cứ, có quyền cung cấp những chứng cứ đó cho Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình đồng thời có quyền biết và sao chép tài liệu chứng cứ của bên kia.
Khi tiến hành thủ tục khởi kiện, theo quy định tại khoản 2 Điều 32 Pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp lao động thì “đơn kiện phải do nguyên đơn hoặc đại diện của nguyên đơn ký. Kèm theo đơn khởi kiện phải có các tài liệu chứng minh yêu cầu của nguyên đơn” [38]. Đơn kiện của nguyên đơn phải có đầy đủ các nội dung theo quy định cũng như nội dung các tài liệu chứng cứ để làm cơ sở cho yêu cầu của mình. Nếu không cung cấp đầy đủ chứng cứ thì đó sẽ là một trong những căn cứ để trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại Điều 33 Pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp lao động. Đối với những vụ án dân sự thì thủ tục khởi kiện được qui định tại khoản 3 Điều 34 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự: “Người khởi kiện phải làm đơn ghi rõ họ tên, địa chỉ của mình, của bị đơn và của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; nội dung vụ việc, yêu cầu của mình và những tài liệu, lý lẽ chứng minh cho những yêu cầu đó” [36].

Trong quá trình giải quyết vụ án đương sự có quyền tự mình hoặc ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng thay mình: “Người đại diện được ủy quyền thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự trong phạm vi được ủy quyền” [36]. Ngoài ra pháp lệnh còn quy định đương sự có quyền nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình, khoản 3 Điều 25 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quy định: “Người bảo vệ quyền lợi của đương sự có nghĩa vụ sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để góp phần làm sáng tỏ sự thật của vụ án; giúp đương sự về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ” [36].

So với các văn bản trước đây, ba pháp lệnh trên có bước tiến nhất định trong các quy định về trình tự tố tụng nói chung và quy định về chứng cứ, chứng minh nói riêng. Tuy nhiên vấn đề chứng cứ và chứng minh là một vấn đề khó, phức tạp nhưng lại quy định quá sơ sài, như tác giả Phan Hữu Thư đã nhận xét: “Các quy định của pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án dân sự, pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động, pháp lệnh giải quyết các vụ án kinh tế thiếu hoàn toàn các quy định về chứng cứ, quy trình chứng minh, phân loại chứng cứ, phân định giá trị chứng minh của từng chứng cứ” [24, tr. 223]. Đặc biệt là những quy định điều chỉnh về hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ hầu như chưa được quy định trong luật. Điều này dẫn đến một thực tế là nhiều trường hợp các đương sự không thực hiện tốt nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của mình, gây khó khăn cho Tòa án trong việc điều tra, xét xử vụ việc dân sự. Vai trò của Luật sư trong việc phát hiện, thu thập, cung cấp chứng cứ và chứng minh rất mờ nhạt, chưa được coi trọng. Do vấn đề về chứng cứ và chứng minh được quy định sơ sài như vậy nên trong thực tế có những Tòa án khi tiến hành điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ, xây dựng hồ sơ không đầy đủ, không vô tư, khách quan trong việc xem xét, đánh giá chứng cứ. Có thể nói, các quy định của ba pháp lệnh trên tuy đã đề cập đến nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của đương sự nhưng không rõ ràng, rành mạch, trong khi đó lại quy định khá rõ nét vai trò điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án.

1.4.3. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay

BLTTDS được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15 tháng 6 tháng 2004, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS. Tại Chương 7, từ Điều 79 đến Điều 98 của BLTTDS đã kế thừa và phát triển của pháp luật hiện hành về chứng cứ và chứng minh, đồng thời quy định nhiều điểm mới tiến bộ. Sự ra đời của BLTTDS đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong lịch sử TTDS Việt Nam. Trên cơ sở khắc phục được những bất cập, trống vắng của pháp luật TTDS trước đây. Lần đầu tiên chế định chứng cứ và chứng minh được quy định thành một chương riêng (Chương 7 của BLTTDS). Nhiều quy định mới được pháp điển hóa như khái niệm chứng cứ, nguồn chứng cứ, nghĩa vụ chứng minh, hậu quả pháp lý của việc đương sự không thực hiện nghĩa vụ chứng minh, thủ tục chứng minh…Hơn nữa, nếu như trước đây, Tòa án có trách nhiệm tiến hành điều tra, xác minh thu thập chứng cứ thì với các quy định mới trong BLTTDS thì Tòa án không tự làm thay cho các đương sự trong việc thu thập chứng cứ, các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ, hợp pháp… Chính quy định này góp phần làm giảm tải công việc cho Tòa án bởi Tòa án không còn phải vất vả trong việc tìm kiếm chứng cứ để giải quyết vụ việc dân sự. Điều này cũng tránh việc Tòa án vừa là cơ quan xét xử vừa là cơ quan đi xác minh, thu thập toàn bộ chứng cứ của vụ án sẽ dẫn đến việc lạm quyền, không khách quan khi giải quyết vụ án. Nâng cao được tính thuyết phục trong các phán quyết của bản án. Nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS được quy định tại Điều 6 BLTTDS như sau:

1. Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.

Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh như đương sự.

2. Tòa án chỉ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật này quy định [21].

Như vậy, đương sự cũng như cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác khi khởi kiện phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Đây là nguyên tắc xuyên suốt trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự phải thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình ngay từ khi nộp đơn đến Tòa án khởi kiện, bởi tại Điều 165 BLTTDS quy định: “Người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp” [21]. Có thể nói đây là quy định tiến bộ, phù hợp với xu hướng phát triển của đất nước ta trong thời kỳ đổi mới cũng như tiệm cận với pháp luật của các nước trên thế giới.
BLTTDS còn quy định trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cá nhân, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được tài liệu, chứng cứ.

Bên cạnh các quy định của BLTTDS thì ngày 17-9-2005 Hội đồng thẩm phán TANDTC ban hành Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP về hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về “Chứng minh và chứng cứ”. Nghị quyết này đã hướng dẫn cụ thể, rõ hơn về cung cấp chứng cứ, xác định chứng cứ, thủ tục giao nhận chứng cứ, thu thập chứng cứ và thủ tục giao nhận chứng cứ ở giai đoạn phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Có thể nói với những hướng dẫn trên đã tạo điều kiện thuận lợi rất lớn cho Tòa án địa phương trong công tác xét xử, giảm những vụ việc dân sự bị sửa, hủy do điều tra, thu thập chứng cứ chưa đầy đủ.

Ngoài ra, Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP còn ban hành một số mẫu văn bản TTDS, cụ thể: Biên bản giao nhận chứng cứ; quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ; quyết định trưng cầu giám định; quyết định định giá tài sản quyết định ủy thác thu thập chứng cứ. Chính điều này đã góp phần làm cho việc việc thu thập, giao nhận, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ đi vào nề nếp.

Tóm lại, các quy định về nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS có lịch sử hình thành lâu dài song song với sự phát triển của các quy định về hoạt động TTDS. Dưới những hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau mà những quy định về nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS có khác nhau nhưng ngày càng được quy định cụ thể hóa và dần hoàn thiện phù hợp với yêu cầu của thực tiễn đời sống, góp phần giải quyết vụ án được nhanh gọn, chính xác, khách quan, đúng pháp luật.

1.5. MỘT SỐ KHÁC BIỆT GIỮA QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỚI QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC VỀ NGUYÊN TẮC NGHĨA VỤ CUNG CẤP CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

Theo quan niệm truyền thống, hiện nay trên thế giới tồn tại hai hệ thống pháp luật chính: (1) hệ thống Commom Law (hay còn gọi là hệ thống Luật án lệ hay thông lệ pháp) và hệ thống Civil Law (còn gọi là hệ thống Luật dân sự). Tương ứng với hai hệ thống luật nội dung như trên tồn tại thủ tục tố tụng cũng khác nhau đó là thủ tục tố tụng tranh tụng và thủ tục tố tụng xét hỏi. Về bản chất hai thủ tục tố tụng này được vận hành trên nguyên tắc khác nhau do được xây dựng trên hai hệ thống pháp luật khác nhau. Cơ sở để xác định nội dung nguyên tắc chứng minh trong TTDS đặc biệt là trách nhiệm chứng minh của Tòa án chịu chi phối khá nhiều vào mô hình tố tụng là tranh tụng hay thẩm vấn. Nhìn ở khía cạnh tổng quan, mặc dù cả hai hệ thống pháp luật này đều có điểm thống nhất chung khi quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên đưa ra yêu cầu. Tuy nhiên, do đặc trưng của từng hệ thống pháp luật các quy định về chứng minh nói riêng và các vấn đề tố tụng khác nói chung nên các quy định về chứng minh ở hai hệ thống pháp luật này lại mang những dấu ấn khác biệt riêng. Nghiên cứu dưới góc độ luật so sánh chúng ta có thể thấy, nếu như theo hệ thống Luật án lệ (điển hình là luật Anh, Mỹ…) các vấn đề về chứng minh và chứng cứ được quy định trong một đạo luật riêng gọi là Bộ luật chứng cứ. Ví dụ: Federal Rules of Evidence – Luật chứng cứ Liên bang Hoa Kỳ, quy định rõ thế nào là chứng cứ, việc thẩm tra, thu thập, đánh giá chứng cứ… Còn hầu hết các nước theo hệ thống luật dân sự thì vấn đề chứng minh và chứng cứ được quy định cụ thể trong BLTTDS.

Liên quan tới nội dung của chế định chứng minh, phần lớn các nước theo hệ thống Luật án lệ hoàn toàn không quy định vai trò điều tra của Tòa án, Thẩm phán không có trách nhiệm tìm ra sự thật, theo đó Tòa án được coi là cơ quan trọng tài. Người thẩm phán làm nhiệm vụ xét xử về dân sự chỉ là người phân xử trên cơ sở các chứng cứ do đương sự cung cấp. Việc cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của đương sự hoàn toàn thuộc trách nhiệm của các bên, cụ thể là Luật sư của các bên. Hoạt động chứng minh tập trung chủ yếu tại phiên tòa, tại đó các Thẩm phán được trao quyền để điều khiển các hành vi tố tụng. Chứng cứ được các bên đương sự trực tiếp đưa ra trong quá trình tranh tụng. “Bên thắng trong tố tụng tranh tụng là bên đã chứng minh được trước tòa là mình đúng, mặc dù trong nhiều trường hợp bên thắng trong tố tụng tranh tụng chưa hẳn là bên đúng” [2, tr. 63]. Tất cả các tình tiết, các chứng cứ mà Tòa án sử dụng để ra bản án đều đã được các bên tranh luận tại phiên tòa.

Ví dụ: Theo thủ tục TTDS Anh, chứng cứ bình thường là nhân chứng. Việc thu thập chứng cứ qua nghe nhân chứng được thực hiện theo quy tắc Thẩm phán không chất vấn nhân chứng mà chỉ có Luật sư mới chất vấn nhân chứng thông qua việc đặt câu hỏi cho người làm chứng trình bầy (người làm chứng ở đây được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả những người có trình độ về chuyên môn như giám định viên).

Ở các nước theo truyền thống Án lệ, nhìn chung chứng cứ miệng được ưu tiên hơn chứng cứ viết, phiên tòa được coi là một sự kiện, tại đó các đương sự trình bầy về nội dung tranh chấp, người làm chứng thề về lời khai của họ và lời khai đó được kiểm tra, đối chất với sự có mặt của Thẩm phán và Hội đồng xét xử. Các Luật sư trình bầy bằng lời nói những kiến nghị và những phản đối của mình và Thẩm phán ra những phán quyết bằng lời nói về các yêu cầu đó. Tố tụng tranh tụng khác với tố tụng xét hỏi – nơi mà trước khi mở phiên tòa các chứng cứ đã được điều tra, thu thập đầy đủ và thể hiện trong hồ sơ vụ án, tại phiên tòa Thẩm phán chỉ kiểm tra lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của chứng cứ này. Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng xét hỏi không phải là trọng tài mà là vai trò của người điều hành – Chủ tọa phiên tòa. Như vậy, trong hệ thống Luật dân sự ngược lại với hệ thống Luật án lệ, việc thu thập chứng cứ từ lời khai của người làm chứng được tiến hành trước khi mở phiên tòa và tại phiên tòa lời khai của người làm chứng được tiến hành trước khi mở phiên tòa và tại phiên tòa lời khai này được công bố bởi Hội đồng xét xử. Trong trường hợp người làm chứng có mặt tại phiên tòa thì những câu hỏi dành cho người làm chứng thường được Thẩm phán hỏi trên cơ sở những câu hỏi viết mà Luật sư nộp lên. Theo truyền thống này, Thẩm phán đóng vai trò quyết định trong quá trình xét xử. Thẩm phán bao giờ cũng có trong tay toàn bộ tài liệu về quá trình thu thập chứng cứ, là người đặt câu hỏi cho người tham gia phiên tòa. Ở một số nước, Thẩm phán còn phải làm nhiệm vụ điều tra, hoặc đánh giá sự cần thiết đưa vụ án ra xét xử. Thực tế cũng cho thấy, việc thu thập chứng cứ có thể do một người khác (không phải là Thẩm phán xét xử thực hiện) và được lập hồ sơ gửi cho Hội đồng xét xử. Tại phiên tòa, việc xét hỏi để xác định chứng cứ do các đương sự cung cấp được tiến hành bởi Hội đồng xét xử, về cơ bản nó được xác định theo ý chủ quan của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, vai trò của Luật sư rất mờ nhạt so với Luật sư các nước theo hệ thống Luật án lệ. Luật sư chỉ được hỏi hoặc được phép đặt câu hỏi sau khi Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã hỏi xong, nhiều khi câu hỏi của Luật sư bị rơi vào quên lãng. Có thể nói, phần lớn các nước theo hệ thống Luật dân sự, quyền chất vấn người làm chứng không những được trao cho Hội đồng xét xử, Luật sư và cả đại diện Viện kiểm sát theo nguyên tắc: Tòa chỉ cần nghe những lời khai nào của người làm chứng có thể giúp ích cho việc tìm ra sự thật.

Chứng cứ với vai trò quan trọng, quyết định và là nền tảng để giải quyết vụ việc dân sự cho nên trong quy định pháp luật của từng nước kể cả hai hệ thống pháp luật là Luật án lệ và Luật dân sự thì khái niệm chứng cứ luôn được đặt ở vị trí trọng tâm.

Trong pháp luật TTDS bang Quebec (Canada), khái niệm chứng cứ trong tố tụng có hai nghĩa: (1) chứng cứ chỉ tổng hợp các tài liệu, dữ kiện cho phép Thẩm phán ra một phán quyết; (2) chứng cứ chỉ các phương tiện chứng minh mà pháp luật cho phép nhằm xác định sự thật của một sự kiện có tranh chấp. Với nghĩa thứ hai này, chứng cứ dân sự được hiểu là việc chứng minh sự tồn tại của một hành vi, một sự kiện xác lập, thay đổi, chuyển giao hoặc chấm dứt một quyền chủ quan, thông qua các phương tiện chứng minh mà pháp luật cho phép.
Theo quy định tại Điều 401 Luật chứng cứ liên bang Hoa Kỳ, khái niệm chứng cứ được định nghĩa như sau: “Chứng cứ là những gì mà hàm chứa trong nó sự tồn tại của bất cứ một sự thực nào mà bản thân sự hàm chứa đó có ảnh hưởng tới việc xác định được một hành động hơn hoặc kém hơn”.

Theo Luật chứng cứ Ôxtraylia, khái niệm chứng cứ được hiểu là những gì được dùng để chứng minh sự tồn tại của một tình tiết thực sự nào đó trong các vụ án dân sự. Các sự kiện, tài liệu được sử dụng làm chứng cứ phải được thu thập, kiểm tra, đánh giá theo trình tự, thủ tục và những nguyên tắc nhất định theo quy định của Luật chứng cứ.
Luật TTDS Nhật Bản đưa ra định nghĩa chứng cứ dựa trên tính chất chứng minh của chứng cứ như sau: “Chứng cứ là một tư liệu thông qua đó Tòa án được thuyết phục là một tình tiết nhất định tồn tại hay không”. Chứng cứ được hiểu bao gồm: phương pháp chứng minh (là phương pháp Thẩm phán sử dụng như là đối tượng của việc xem xét chứng cứ), tư liệu chứng cứ (là nội dung tư liệu có thể được công nhận như là kết quả của việc xem xét cách thức tiếp cận, đánh giá chứng cứ) và nguyên nhân của chứng cứ (là nguyên nhân mà thông qua đó Thẩm phán được thuyết phục về sự tồn tại hay không tồn tại của tình tiết, sự kiện).

Như vậy, các định nghĩa trên đều gặp nhau ở một điểm chung trong quy phạm định nghĩa chứng cứ là cơ sở, căn cứ để Tòa giải quyết vụ án. Các thuộc tính của chứng cứ đã được thể hiện tương đối đầy đủ trong nội hàm của khái niệm, tuy nhiên vẫn có khá nhiều những dấu ấn đặc trưng về kỹ thuật lập pháp và quan niệm chứng cứ, các loại chứng cứ từ quy định của pháp luật ở từng nước.

Thủ tục thu thập chứng cứ ở một số nước trong hệ thống trung gian (không nghiêng hẳn theo truyền thống pháp luật nào) – nơi mà thủ tục tố tụng phát triển theo hướng đơn thuần trở thành viết, chẳng hạn như ở Cộng hòa Liên bang Đức thì thu thập chứng cứ từng giai đoạn là không được phép. “Chứng cứ được thu thập trực tiếp tại một phiên tòa tập trung duy nhất. Trong trường hợp chứng cứ được thu thập riêng rẽ, chúng chỉ có thể được đưa ra tại một phiên tòa duy nhất tập trung với sự có mặt đầy đủ thành phần tòa án và người tham gia tố tụng” [39, tr. 84]. Trong tố tụng của Cộng hòa Liên bang Đức thì nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên đưa ra yêu cầu. Pháp luật chỉ cho phép trong một số trường hợp hạn hữu, thường là liên quan đến quan hệ hợp đồng (Điều 810 Bộ luật Dân sự Cộng hòa Liên bang Đức) một bên có quyền xem những tài liệu đang do một bên khác giữ. Ngoài những quyền bị giới hạn này, một bên không thể ép bên kia hoặc người thứ ba cung cấp những tài liệu có thể củng cố vụ kiện của mình hay chứa đựng những nghi ngờ về lý lẽ của đối thủ. “Đã và đang có sự tranh cãi ở Đức về vấn đề Tòa án có ủng hộ nghĩa vụ hợp tác, ít nhất là giữa các bên, bằng cách chuyển nghĩa vụ chứng minh hoặc đưa ra những kết luận không có lợi chống lại bên không chịu đưa ra những dạng chứng cứ nhất định” [6, tr. 1-2].

Thủ tục TTDS Việt Nam, nhìn chung cũng theo nguyên tắc của hệ thống Luật dân sự. Pháp luật Việt Nam được hình thành qua nhiều thời kỳ khác nhau, chịu ảnh hưởng của nhiều hệ thống pháp luật trên thế giới. Tuy vậy có thể xếp pháp luật Việt Nam vào hệ thống Luật dân sự và theo thủ tục tố tụng xét hỏi. Trong xu thế phát triển của mình, pháp luật Việt Nam không thể chuyển đổi ngay từ hệ thống Luật dân sự sang hệ thống Luật án lệ được, cũng không thể ngay lập tức áp dụng thủ tục tranh tụng vì điều này đòi hỏi một quá trình lâu dài với những cải cách về pháp luật rất cơ bản cùng với quan niệm về đạo đức và văn hóa pháp lý. Xu hướng cải tổ của pháp luật Việt Nam là kết hợp những yếu tố tranh tụng của tố tụng tranh tụng vào thủ tục xét hỏi. Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành cũng đã quy định tương đối đầy đủ các yếu tố cần thiết để mở rộng tranh tụng vào thủ tục xét hỏi. Các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam quy định các bên có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự. Bằng việc cung cấp chứng cứ, đương sự đã trở thành một bên tham gia tranh luận. Điều 165 BLTTDS quy định: “Người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình là có căn cứ và hợp pháp” [21]. Quy định này cũng có nghĩa là khi một người khởi kiện mà không có tài liệu chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình, Tòa án có quyền không thụ lý mà trả lại đơn khởi kiện. Yếu tố chứng cứ là yếu tố không thể thiếu của vụ kiện. Những chứng cứ do bên nguyên đơn cung cấp, thông thường sẽ khác và đối lập với chứng cứ do bên bị đơn đưa ra. Trong cuộc tranh luận bằng chứng cứ, lý lẽ này, bên nào đưa ra được những chứng cứ, lý lẽ xác thực, bên đó sẽ thắng kiện. Chính đương sự là người quyết định sự thắng hay thua trong vụ kiện. Về nguyên tắc, Tòa án chỉ căn cứ những chứng cứ mà đương sự đã trình bầy, áp dụng quy định của pháp luật để quyết định lợi ích của các bên. Điều này đòi hỏi sự chủ động, sự tích cực, sự nỗ lực của đương sự. Tuy nhiên do chịu sự chi phối của mô hình tố tụng và điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, thực tiễn xét xử cho thấy vai trò thu thập chứng cứ của Tòa án vẫn quá lớn, việc nghiên cứu chứng cứ tại phiên tòa còn mang nặng thủ tục hỏi, vai trò của các bên đương sự trong thực tế vẫn khá mờ nhạt. Tại phiên tòa, mọi sự chất vấn người làm chứng đều được thực hiện dưới sự điều khiển của Chủ tọa phiên tòa. Mặc dù có quy định tố tụng được tiến hành trực tiếp, công khai và bằng lời nói, tuy nhiên quy định này bị lấn át bởi thủ tục văn bản.
Như vậy, pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành đã quy định điều kiện căn bản cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự. Việc bỏ quy định về trách nhiệm điều tra, thu thập, xác minh chứng cứ của Tòa án trong BLTTDS là xu hướng phát triển tương đồng với quan niệm và lý luận chứng cứ và chứng minh của các nước theo các trường phái luật hiện nay trên thế giới. Trong thực tế, việc thực hiện quy định này còn có những hạn chế. Chẳng hạn, đương sự muốn xuất trình một chứng cứ làm cơ sở cho yêu cầu của họ như các giấy tờ về nhà đất, họ không dễ dàng, thậm chí là không thể yêu cầu cơ quan quản lý nhà đất hoặc cơ quan liên quan cung cấp cho họ những giấy tờ về nhà đất xác định chủ quyền của họ. Các cách thức của Tòa án khi thụ lý vụ án cũng nhưng trong quá trình chuẩn bị xét xử đã tạo ra cho đương sự tâm lý và quan niệm không đúng rằng chứng cứ của vụ án do Tòa án trực tiếp thu thập có giá trị cao hơn chứng cứ do đương sự thu thập cung cấp cho Tòa án. Điều này không chỉ làm cho đương sự không thực hiện tốt nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, mà còn triệt tiêu tính chất tranh tụng giữa các bên trong TTDS.

Do nhận thức pháp luật của người dân còn ở mức độ hạn chế, nên pháp luật tố tụng của Việt Nam nói riêng, cũng như của các nước trên thế giới nói chung đều quy định sự tham gia của Luật sư trong tố tụng. Tính chất chuyên nghiệp trong hoạt động bảo vệ pháp luật của Luật sư làm quá trình tranh tụng được diễn ra thực sự với những tranh luận về chứng cứ, về pháp luật, sẽ làm rõ sự thật khách quan của vụ án đồng thời thực hiện triệt để quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự. Đây là cơ sở quan trọng để Tòa án có thể đưa ra những phán quyết đúng pháp luật. Vì tầm quan trọng như vậy, pháp luật TTDS Việt nam đã quy định việc tham gia tố tụng của Luật sư với một trong hai tư cách: Là người đại diện cho đương sự hoặc là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Điểm i khoản 2 Điều 58 BLTTDS đã quy định: Đương sự được tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; đương sự cũng có thể ủy quyền cho Luật sư hoặc người khác làm người đại diện thay mặt mình trong tố tụng. Người được đại diện thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong phạm vi ủy quyền.
Thực tế cũng cho thấy, không phải lúc nào Tòa án cũng phân biệt được sự khác nhau này để tạo điều kiện cho các Luật sư thực hiện vai trò tranh tụng đúng quy định của pháp luật. Rõ ràng, đây là một hạn chế lớn trong việc thực hiện tranh tụng tại Tòa án. Tòa án Việt Nam ngoài nhiệm vụ “Xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động và các vụ án khác theo quy định của pháp luật” thì “Trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; tài sản của nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân”. Ngoài ra, “Bằng hoạt động của mình Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, các vi phạm pháp luật khác” [19]. Pháp luật Việt Nam không xem việc xét xử về dân sự là việc tư của công dân. Sự can thiệp của TAND trong xét xử các tranh chấp về dân sự thể hiện tính thống nhất của Nhà nước Việt Nam: TAND là cơ quan xét xử, thực hiện quyền lực nhà nước thông qua hoạt động xét xử.

Khi nghiên cứu hai hệ thống pháp luật này, các nhà luật học so sánh từng nói về “tính tập trung, trực tiếp của phiên tòa tại các nước theo Luật án lệ và tính trung gian của thủ tục tố tụng ở các nước theo hệ thống Luật dân sự” [9, tr.3], cũng như thường đề cập đến sự đối lập giữa “hệ thống lấy chứng cứ (điều tra)- truyền thống Luật dân sự với hệ thống (đối địch) của luật thông pháp” [39, tr. 62]. Có lẽ, chính đặc điểm đặc trưng này là cơ sở tạo nên nét khác biệt cơ bản về việc thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm thu thập chứng cứ và hoạt động chứng minh ở hai hệ thống pháp luật.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Tư pháp (1957), Thông tư số 141/HCTP ngày 05/12 quy định về tổ chức và phân công trong nội bộ Tòa án, Hà Nội.

2. Bộ Tư pháp – Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý (2004), “Một số vấn đề về tranh tụng trong tố tụng dân sự”, Thông tin khoa học pháp lý, (2).

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

4. Nguyễn Minh Hằng (2009), Hoạt động chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Chính trị – Hành chính, Hà Nội.

5. Học viện Tư pháp (2007) Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

6. John Henry Marryman (1998), “Truyền thống luật dân sự: Giới thiệu về các hệ thống luật Tây Âu và Mỹ la tinh”, Kỷ yếu Hội thảo về tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội.

7. Nguyễn Ngọc Khánh (2005) “Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong Bộ luật Tố tụng dân sự”, Nhà nước và pháp luật, (5), tr. 65-68.

8. C. Mác – Ph. Ăngghen (1983), Tuyển tập, Tập 5, Nxb Sự thật, Hà Nội.

9. Triệu Quốc Mạnh (2000), Pháp luật và dân luật đại cương, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

10. Phạm Hữu Nghị (2000) “Về nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự”, Nhà nước và pháp luật, (12), tr. 39-40.

11. Hoàng Phê (Chủ biên) (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 12. Quốc hội (1946), Hiến pháp, Hà Nội.

13. Quốc hội (1959), Hiến pháp, Hà Nội.

14. Quốc hội (1961), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.

15. Quốc hội (1980), Hiến pháp, Hà Nội.

16. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.

17. Quốc hội (2000), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.

18. Quốc hội (2001), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.

19. Quốc hội (2001), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.

20. Quốc hội (2004), Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội.

21. Quốc hội (2011), Bộ luật tố tụng dân sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.

22. Quốc hội (2012), Luật Công đoàn, Hà Nội.

23. Hoàng Ngọc Thỉnh (2004), “Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự”, Luật học, (Đặc san góp ý dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự), (4).

24. Phạm Hữu Thư (2001), Xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

25. Tòa án nhân dân tối cao (1961), Thông tư 2386/NCPL ngày 19/12 hướng dẫn Tòa án địa phương, Hà Nội.

26. Tòa án nhân dân tối cao (1964), Đề án năm 1964 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn tổ chức các Tòa án địa phương, Hà Nội.

27. Tòa án nhân dân tối cao (1974), Thông tư 06/TATC ngày 25/02 hướng dẫn điều tra trong tố tụng dân sự, Hà Nội.

28. Tòa án nhân dân tối cao (1977), Thông tư 96/NCPL ngày 08/02 ban hành Bản hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự, Hà Nội.

29. Tòa án nhân dân tối cao (1996), Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Bộ luật Tố tụng dân sự, Đề tài nghiên cứu khoa học, mã số 95-98-046/ĐT, Hà Nội.

30. Tòa án nhân dân tối cao (2000), Công văn số 92/2000/KHXX ngày 21/7 hướng dẫn việc xác định giá trị quyền sử dụng đất, Hà Nội.

31. Tòa án nhân dân tối cao (2005), Nghị quyết 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/9 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng  dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về “Chứng minh và chứng cứ”, Hà Nội.

32. Tòa án nhân dân tối cao (2010), Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dântối cao trước kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa 12 ngày 15/10, Hà Nội.

33. Tòa án nhân dân tối cao (2011), Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trước kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XIII ngày 14/10, Hà Nội.

34. Tòa án nhân dân tối cao (2012), Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trước kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XIII ngày 09/10, Hà Nội.

35. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

36. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1989), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết vụ án dân sự, Hà Nội.

37. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1994), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết vụ án kinh tế, Hà Nội.

38. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1996), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết tranh chấp lao động, Hà Nội.

39. Viện Khoa học xét xử (2000), Về pháp luật tố tụng dân sự, Kỷ yếu hội thảo VIE/95/017, Hà Nội.

40. Viện Ngôn ngữ học (2008), Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển bách Khoa, Hà Nội.

Ví dụ: Nguyễn Văn A khởi khiện Nguyễn Văn B để đòi lại 100.000.000 đồng mà mình đã cho B vay từ ngày 1/1/2015 đến ngày1/12/2015. Khi đưa ra yêu cầu này A có nghĩa vụ chứng minh là mình đã cho B vay 100.000.000 đồng là có căn cứ và hợp pháp. Để chứng minh việc có quan hệ vay tài sản giữa A và B thì A đã A đưa có hợp đồng vay tài sản có chữ kí của A và B.


Các tìm kiếm liên quan đến nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự: ý nghĩa của chứng minh trong tố tụng dân sự, nguyên tắc đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh, thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự 2015, nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự, tiểu luận chứng cứ trong tố tụng dân sự, yêu cầu người làm chứng cung cấp chứng cứ, chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự, nguồn chứng cứ trong tố tụng dân sự 2015

5/5 - (1 bình chọn)

Phản hồi

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền