Học thuyết về tội phạm – Những vấn đề cơ bản

Chuyên mụcLuật hình sự, Tội phạm học Tội phạm

I. Đặt vấn đề

1. Ý nghĩa của việc nghiên cứu

Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, sự cần thiết của việc nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản mang tính chất nhập môn của học thuyết về tội phạm (hay còn gọi là lý luận về tội phạm) với tư cách là tiền đề đầu tiên trước khi bắt tay vào phân tích khoa học các bộ phận cấu thành (phần) của học thuyết này có ý nghĩa lý luận và phương pháp luận rất quan trọng trên các bình diện sau:

Thứ nhất, trong hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản cần được nghiên cứu của học thuyết về tội phạm, thì phần nhập môn của học thuyết này chính là nội dung đầu tiên mà khoa học luật hình sự có nhiệm vụ phải làm sáng tỏ, tức là phải chỉ ra được nội hàm của các khái niệm và các phạm trù với tư cách là những đối tượng nghiên cứu được đề cập trong bài viết này, những vấn đề mà từ trước đến nay chưa bao giờ được đề cập đến trong khoa học luật hình sự Việt Nam (ví dụ: 1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của phạm trù “học thuyết” trong khoa học luật hình sự là gì?; 2. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của phạm trù “trường phái” trong khoa học luật hình sự là gì?; 3. Sự giống nhau và khác nhau giữa hai phạm trù này như thế nào?; 4. Khái niệm, các đặc điểm cơ bản và các bộ phận cấu thành chủ yếu của học thuyết về tội phạm).

Thứ hai, chỉ có trên cơ sở tiếp cận nghiêm túc và đầy đủ phần nhập môn của học thuyết về tội phạm thì các luật gia, các nhà hình sự học mới có thể đưa ra sự phân tích khoa học một cách sâu sắc và chính xác những vấn đề lý luận cơ bản, mà cụ thể là 6 (sáu) đối tượng nghiên cứu nêu tại điểm 2 dưới đây của Phần “Đặt vấn đề” này.

Thứ ba, việc nắm vững một cách toàn diện và có hệ thống những vấn đề cơ bản của nhập môn học thuyết về tội phạm sẽ giúp chúng ta có được phương pháp tiếp cận vấn đề đúng đắn và khoa học để tiếp tục nghiên cứu một cách biện chứng và khách quan các các bộ phận cấu thành của học thuyết này (như: Bản chất và khái niệm tội phạm, phân loại tội phạm, nhiều tội phạm, lỗi, các giai đoạn thực hiện tội phạm, đồng phạm.v.v.) trong mối quan hệ hữu cơ và thống nhất, tương hỗ và chặt chẽ của chúng với nhau.

 

2. Hệ thống những vấn đề cần được nghiên cứu

Như vậy, để làm rõ nội hàm của các phạm trù và các khái niệm với tư cách là những vấn đề lý luận cơ bản được đề cập trong bài viết, theo quan điểm của chúng tôi các luật gia, các nhà hình sự học cần phải đưa ra được sự phân tích khoa học 6 (sáu) đối tượng nghiên cứu riêng biệt tương ứng với các nhóm vấn đề như sau:

1) Nhóm vấn đề thứ nhất – Về phạm trù “học thuyết” trong khoa học luật hình sự;

2) Nhóm vấn đề thứ hai – Khái niệm, các đặc điểm cơ bản và các bộ phận cấu thành (phần) chủ yếu của học thuyết về tội phạm;

3) Nhóm vấn đề thứ ba – Các phương hướng cơ bản của việc nghiên cứu học thuyết về tội phạm trong khoa học luật hình sự giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay;

4) Nhóm vấn đề thứ tư – Về phạm trù “trường phái” trong khoa học luật hình sự;

5) Nhóm vấn đề thứ năm – Phân biệt sự giống nhau và khác nhau của học thuyết với trường phái trong khoa học luật hình sự;

6) Nhóm vấn đề thứ sáu – Nội dung chính của một số trường phái chủ yếu trong khoa học luật hình sự.

 

II. Nội dung vấn đề

1. Về phạm trù “học thuyết” trong khoa học luật hình sự

Trước khi xây dựng khái niệm “học thuyết” trong khoa học luật hình sự và tìm hiểu nội hàm của nó, thiết nghĩ chúng ta cần phải bàn đến cội nguồn sự ra đời của ngành luật này và của các công trình nghiên cứu lý luận về luật hình sự.

1.1. Luật Hình sự được thừa nhận chung là ngành luật cổ điển nhất vì đã xuất hiện ngay từ thời kỳ cổ đại cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật, cũng như sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng và chính vì vậy, nó là ngành luật xuất hiện sớm hơn tất cả so với các ngành luật khác trong các hệ thống pháp luật đang tồn tại trên thế giới. Tuy nhiên, trong thời đại xa xưa ấy của xã hội loài người Luật Hình sự chưa hề phát triển với tính chất là một chuyên ngành khoa học pháp lý độc lập nhưhiện nay.

1.2. Việc nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển cửa khoa học luật hình sự từ xưa đến nay cho thấy, các công trình nghiên cứu lý luận đầu tiên trong lĩnh vực luật hình sự chỉ được nhân loại biết đến cùng sự ra đời của các khoa Luật tại các trường Đại học tổng hợp của La Mã cổ đại (Italia đương đại). Ngay từ thời kỳ trung cổ (các thế kỷ XIII – XVI), các công trình khoa học luật hình sự nổi tiếng nhất thế giới đã được soạn thảo tại chính đất nước này. Hơn nữa, Italia là một quốc gia duy nhất trên thế giới, mà ở đó ngay từ thế kỷ XIX chỉ trong cùng một năm (1865) đã có đến bốn (04) bộ luật được thông qua – đó là: 1. Bộ luật Dân sự; 2. Bộ luật Thương mại; 3. Bộ luật Tố tụng Dân sự và; 4. Bộ luật Tố tụng Hình sự(1). Chính vì ở một đất nước có hệ thống pháp luật phát triển mạnh mẽ và toàn diện như vậy nên những tác phẩm của các nhà khoa học luật hình sự Italia đã có ảnh hưởng đáng kể không chỉ đến sự xuất hiện của khoa học luật hình sự nói riêng, mà còn ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của pháp luật Châu Âu nói chung.

1.3. Cùng với thời gian, trong các trường phái khoa học luật hình sự quốc gia tại các nước Châu Âu đã dần dần xuất hiện các công trình nghiên cứu riêng, ở Hà Lan (thế kỷ XVI), Đức (thế kỷ XVII), Pháp (thế kỷ XVIII), Nga (thế kỷ XIX).v.v. Về cơ bản, trong giai đoạn thế kỷ XVIII – thế kỷ XIX những tư tưởng và những quan điểm khác nhau được trình bày trong các công trình nghiên cứu về luật hình sự đã góp phần hình thành nên các học thuyết (trường phái) lý luận riêng biệt trong khoa học luật hình sự.

1.4. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của học thuyết trong khoa học luật hình sự. Từ sự phân tích trên đây, đồng thời xuất phát từ việc nghiên cứu các quy phạm và các chế định khác nhau trong pháp luật hình sự (thực định) và trên cơ sở tổng kết những trường phái, quan điểm khác nhau trong khoa học luật hình sự của nước ngoài và của Việt Nam, theo chúng tôi có thể đưa ra định nghĩa khoa học của khái niệm đang nghiên cứu như sau: Học thuyết trong khoa học luật hình sự là hệ thống những vấn đề lý luận của các học giả thuộc các trường phái khác nhau về (hoặc liên quan đến) đạo luật hình sự, tội phạm, trách nhiệm hình sự, các biện pháp tha miễn hoặc (và) hình phạt, cũng như một (hoặc nhiều) chế định pháp lý hình sự nào đó, được hình thành và phát triển một cách đồng bộ và chặt chẽ qua các thời kỳ lịch sử với tư cách là những tư tưởng luật hình sự riêng biệt, mang tính học thuật rõ rệt và được thừa nhận chung ở các mức độ nhất định. Từ khái niệm này cho thấy, để được gọi là một “học thuyết” trong khoa học luật hình sự đúng với nghĩa đầy đủ của nó phải có ít nhất là 3 (ba) đặc điểm cơ bản (dấu hiệu đặc trưng chính) dưới đây mà nếu như thiếu một trong ba đặc điểm cơ bản này, thì khó có thể được thừa nhận là “học thuyết”:

  1. Đặc điểm thứ nhất, học thuyết trong khoa học luật hình sự là hệ thống những vấn đề lý luận của các học giả thuộc các trường phái khác nhau về (hoặc liên quan đến) một (hoặc nhiều) chế định của luật hình sự như: a. Đạo luật hình sự, b. Tội phạm, c. Trách nhiệm hình sự; d. Hình phạt, đ. Các biện pháp tha miễn và e. Một (hoặc nhiều) chế định pháp lý hình sự nào đó.
  2. Đặc điểm thứ hai, hệ thống của những vấn đề lý luận của các học giả thuộc các trường phái khác nhau đó trong khoa học luật hình sự phải được hình thành và phát triển một cách đồng bộ và chặt chẽ qua các thời kỳ lịch sử.
  3. Đặc điểm thứ ba, hệ thống của những vấn đề lý luận của các học giả thuộc các trường phái khác nhau đó trong khoa học luật hình sự phải được đánh giá như là những tư tưởng về luật hình sự riêng biệt, mang tính học thuật rõ rệt và được thừa nhận chung ở các mức độ nhất định.

2. Khái niệm, các đặc điểm cơ bản và các bộ phận cấu thành (phần) chủ yếu của học thuyết về tội phạm

2.1. Khái niệm học thuyết về tội phạm

Từ trước đến nay, trong khoa học luật hình sự của nước ngoài và của Việt Nam mặc dù những vấn đề lý luận về tội phạm (như bản chất, khái niệm của tội phạm và các chế định gần hoặc có liên quan đến tội phạm như phân loại tội phạm, lỗi, đồng phạm.v.v.) được nghiên cứu nhiều, nhưng rất tiếc là chính bản thân phạm trù “học thuyết về tội phạm” là gì(?) và nó bao gồm các bộ phận (phần) cấu thành nào(?), thì lại chưa bao giờ được bàn đến. Chính vì vậy, xuất phát từ việc nghiên cứu các quy phạm và các chế định nhỏ thuộc (hoặc gần) về tội phạm với tư cách là một trong bốn chế định lớn nhất của luật hình sự, đồng thời trên cơ sở phân tích những trường phái và quan điểm khác nhau về vấn đề lý luận có liên quan đến tội phạm trong khoa học luật hình sự của nước ngoài và của Việt Nam, theo chúng tôi có thể đưa ra định nghĩa khoa học của khái niệm đang nghiên cứu như sau: Học thuyết về tội phạm trong khoa học luật hình sự là hệ thống những vấn đề lý luận của các trường phái, các quan điểm khác nhau về (hoặc liên quan đến) tội phạm, một trong bốn chế định lớn nhất của luật hình sự – mà hệ thống đó được hình thành và phát triển một cách đồng bộ và chặt chẽ qua các thời kỳ lịch sử với tư cách là những tư tưởng, luận điểm riêng về tội phạm, mang tính học thuật rõ rệt và được thừa nhận chung ở các mức độ nhất định.

2.2. Các đặc điểm cơ bản của học thuyết về tội phạm

Từ khái niệm đã nêu trên cho thấy, học thuyết về tội phạm có ba (03) đặc điểm cơ bản (dấu hiệu đặc trưng chính) sau đây:

1. Đặc điểm thứ nhất, là hệ thống những vấn đề lý luận của các trường phái, các quan điểm khác nhau về (hoặc liên quan đến) tội phạm, một trong bốn chế định lớn nhất của luật hình sự.

2. Đặc điểm thứ hai, hệ thống những vấn đề lý luận của các trường phái, các quan điểm đó về (hoặc liên quan đến) tội phạm được hình thành và phát triển một cách đồng bộ và chặt chẽ qua các thời kỳ lịch sử.

3. Và cuối cùng, đặc điểm thứ ba, hệ thống những vấn đề lý luận của các trường phái, các quan điểm đó về (hoặc liên quan đến) tội phạm phải được đánh giá như là những tư tưởng luật hình sự riêng biệt, mang tính học thuật rõ rệt và được thừa nhận chung ở các mức độ nhất định.

2.3. Các bộ phận cấu thành (phần) chủ yếu của học thuyết về tội phạm trong khoa học luật hình sự Việt Nam:

Trên cơ sở phân tích các quy phạm và các chế định khác nhau trong pháp luật hình sự (thực định) của nước ta, đồng thời nghiên cứu một số công trình nghiên cứu cơ bản về tội phạm trong khoa học luật hình sự của Việt Nam (từ sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945 đến nay) và của nước ngoài, theo quan điểm của chúng tôi có thể chỉ ra 9 (chín) bộ phận cấu thành (phần) tương ứng với các nhóm vấn đề lý luận cơ bản dưới đây của học thuyết về tội phạm.

1. Bộ phận cấu thành và là nhóm vấn đề thứ nhất, lý luận về bản chất và khái niệm tội phạm có nội dung tương ứng với những vấn đề khoa học như: a. Bản chất xã hội – pháp lý của tội phạm; b. Khái niệm và các đặc điểm (dấu hiệu) của tội phạm; c. Tính quyết định xã hội của các đặc điểm của tội phạm; d. Phân biệt tội phạm với vi phạm pháp luật khác và hành vi trái đạo đức.

2. Bộ phận cấu thành và là nhóm vấn đề thứ hai, lý luận về phân loại tội phạm có nội dung tương ứng với những vấn đề khoa học như: a. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của phân loại tội phạm; b. Những tiêu chí phân loại tội phạm và tính quyết định xã hội của chúng; c. Chế định phân loại tội phạm trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và mô hình lý luận của kiến giải lập pháp trong pháp luật hình sự Việt Nam.

3. Bộ phận cấu thành và là nhóm vấn đề thứ ba, lý luận về cấu thành tội phạm có nội dung tương ứng với những vấn đề khoa học như: a. Khái niệm và phân loại cấu thành tội phạm; b. Bản chất và vai trò của cấu thành tội phạm; c. Khách thể của tội phạm; d. Chủ thể của tội phạm; đ. Mặt khách quan của tội phạm; e. Mặt chủ quan của tội phạm và f. Khách thể của tội phạm.

4. Bộ phận cấu thành và là nhóm vấn đề thứ tư, lý luận về nhiều (đa) tội phạm có nội dung tương ứng với những vấn đề khoa học như: a. Khái niệm nhiều tội phạm và sự khác nhau của nó với tội đơn nhất phức tạp; b. Các dạng nhiều tội phạm trong luật hình sự Việt Nam.

5. Bộ phận cấu thành và là nhóm vấn đề thứ năm, lý luận về lỗi hình sự có nội dung tương ứng với những vấn đề khoa học như: a. Cơ sở triết học và cơ sở tâm lý? Của lỗi trong luật hình sự; b. Khái niệm lỗi hình sự và khái niệm người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm; c. Các hình thức lỗi và các dạng lỗi trong luật hình sự; 4. Chế định lỗi trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và mô hình lý luận của kiến giải lập pháp trong pháp luật hình sự Việt Nam.

6. Bộ phận cấu thành và là nhóm vấn đề thứ sáu, lý luận về các giai đoạn thực hiện tội phạm có nội dung tương ứng với những vấn đề khoa học như: 1. Khái niệm và các dạng trong các giai đoạn thực hiện tội phạm; 2. Chuẩn bị phạm tội; 3. Phạm tội chưa đạt; 4. Nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự trong hai giai đoạn đầu của tội phạm chưa hoàn thành – hoạt động phạm tội sơ bộ; 5) Tội phạm hoàn thành; 6) Tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm; 7) Chế định các giai đoạn thực hiện tội phạm trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và mô hình lý luận của kiến giải lập pháp trong pháp luật hình sự Việt Nam

7. Bộ phận cấu thành và là nhóm vấn đề thứ bảy, lý luận về đồng phạm có nội dung tương ứng với những vấn đề khoa học như: a. định nghĩa khoa học của khái niệm đồng phạm và những dấu hiệu đặc trưng chung của đồng phạm; b. Các hình thức đồng phạm và những dấu hiệu đặc trưng riêng của từng hình thức; c. Các khái niệm có liên quan đến phạm tội có tổ chức; d. Các loại người đồng phạm và vấn đề trách nhiệm hình sự trong đồng phạm; đ. Chế định đồng phạm trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và mô hình lý luận của kiến giải lập pháp trong pháp luật hình sự Việt Nam.

8. Bộ phận cấu thành và là nhóm vấn đề thứ tám, lý luận về các trường hợp (tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của hành vi có nội dung tương ứng với những vấn đề khoa học như: a. Khái niệm và bản chất pháp lý của những trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi; b. Sự kiện bất ngờ; c. Gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự; d. Tính nguy hiểm cho xã hội không đáng kể của hành vi; đ. Phòng vệ chính đáng; e. Tình thế cấp thiết; f. Về một số trường hợp khác loại trừ tính chất tội phạm của hành vi chưa được quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam; g. Chế định những trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và mô hình lý luận của kiến giải lập pháp trong pháp luật hình sự Việt Nam

9. Và cuối cùng, bộ phận cấu thành và là nhóm vấn đề thứ chín, lý luận về việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam có nội dung tương ứng với những vấn đề khoa học như: a. Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam; b. Những yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam; c. Một số nhược điểm chính của các quy định tại Phần chung về tội phạm trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và mô hình lý luận của các kiến giải lập pháp trong pháp luật hình sự Việt Nam.

 

3. Các phương hướng cơ bản của việc nghiên cứu học thuyết về tội phạm trong khoa học luật hình sự giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay

Xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền (đặc biệt là nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ thực sự các quyền và tự do của con người và của công dân), đồng thời trên cơ sở phân tích các luận điểm trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” cho phép chỉ ra các phương hướng cơ bản sau đây của việc nghiên cứu học thuyết về tội phạm trong khoa học luật hình sự nước ta hiện nay:

3.1. Phương hướng cơ bản thứ nhất, nghiên cứu để làm sáng tỏ hơn nữa về mặt lý luận tính quyết định xã hội của các đặc điểm của tội phạm và những tiêu chí phân loại tội phạm để góp phần phân biệt rõ hơn ranh giới giữa tội phạm với các vi phạm pháp luật khác và hành vi trái đạo đức, trên cơ sở đó luận chứng và đưa ra mô hình lý luận của các kiến giải lập pháp để hoàn thiện hơn nữa chế định này trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành.

3.2. Phương hướng cơ bản thứ hai, nghiên cứu để làm sáng tỏ hơn nữa về mặt lý luận hai chế định khó và phức tạp nhất của luật hình sự (lỗi và đa tội phạm) nhằm làm rõ các hình thức lỗi với các dạng của nó, cũng như các dạng nhiều tội phạm để trên cơ sở đó luận chứng và đưa ra mô hình lý luận của các kiến giải lập pháp nhằm hoàn thiện chế định lỗi và ghi nhận chế định đa tội phạm (với tư cách là một chế đinh riêng biệt) trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành.

3.3. Phương hướng cơ bản thứ ba, nghiên cứu để làm sáng tỏ hơn nữa về mặt lý luận chế định các giai đoạn thực hiện tội phạm và chế định đồng phạm nhằm luận chứng và đưa ra mô hình lý luận của các kiến giải lập pháp nhằm hoàn thiện hai chế định này trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành.

3.4. Phương hướng cơ bản thứ tư, nghiên cứu để làm sáng tỏ hơn nữa về mặt lý luận chế định những trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi để trên cơ sở đó luận chứng và đưa ra mô hình lý luận của các kiến giải lập pháp nhằm hoàn thiện chế định này thể hiện tính nhân đạo trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành.

3.5. Phương hướng cơ bản thứ năm, từ việc nghiên cứu để làm sáng tỏ về mặt lý luận những vấn đề nêu trên của học thuyết về tội phạm trong luật hình sự đã cố gắng luận chứng những cơ sở khoa học – thực tiễn của việc hoạch định chính sách hình sự (nói chung) và chính sách pháp luật hình sự (nói riêng), góp phần nâng cao hiệu quả của cải cách tư pháp trong lĩnh vực hình sự ở Việt Nam giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay.

 

4. Về phạm trù “trường phái” trong khoa học luật hình sự

Từ sự phân tích học thuyết trong khoa học luật hình sự nêu trên, đồng thời xuất phát từ việc nghiên cứu các quy phạm và các chế định khác nhau trong pháp luật hình sự (thực định), theo quan điểm của chúng tôi có thể đưa ra định nghĩa khoa học của khái niệm đang nghiên cứu như sau: Trường phái trong khoa học luật hình sự là một hệ thống những vấn đề lý luận của một nhóm các học giả có cùng chung một hướng (hoặc phương pháp luận) nghiên cứu thuộc cùng một hệ quan điểm giống nhau về (hoặc liên quan đến) đạo luật hình sự, tội phạm, trách nhiệm hình sự, các biện pháp tha miễn hoặc (và) hình phạt, cũng như một hoặc nhiều chế định pháp lý hình sự nào đó.v.v. được hình thành và phát triển một cách đồng bộ và chặt chẽ qua các giai đoạn lịch sử với tư cách là những luận điểm luật hình sự riêng biệt, mang tính học thuật rõ rệt và được thừa nhận chung ở các mức độ nhất định. Từ khái niệm này cho thấy, khác với khái niệm của học thuyết, khái niệm của trường phái trong khoa học luật hình sự nếu như được hiểu đúng với nghĩa đầy đủ của nó phải có ít nhất 4 (bốn) đặc điểm cơ bản (dấu hiệu đặc trưng chính) mà thiếu một trong bốn đặc điểm cơ bản này, thì khó mà có thể được thừa nhận là “trường phái”:

4.1. Đặc điểm thứ nhất, trường phái là một hệ thống những vấn đề lý luận của một nhóm các học giả có cùng chung một hướng (hoặc phương pháp luận) nghiên cứu thuộc một hệ quan điểm giống nhau về (hoặc liên quan đến) một (hoặc nhiều) chế định của luật hình sự là: a. Đạo luật hình sự, b. Tội phạm, c. Trách nhiệm hình sự; d. Hình phạt, cũng như đ. Một hoặc nhiều chế định pháp lý hình sự nào đó.

4.2. Đặc điểm thứ hai, hệ thống những vấn đề lý luận của một nhóm các học giả có cùng chung một hướng (hoặc phương pháp luận) nghiên cứu thuộc một hệ quan điểm giống nhau đó trong khoa học luật hình sự là của một nhóm các học giả có cùng chung một hướng (hoặc phương pháp luận) nghiên cứu.

4.3. Đặc điểm thứ ba, hệ thống những vấn đề lý luận các quan điểm giống nhau trong khoa học luật hình sự của một nhóm các nhà hình sự học phải được hình thành và phát triển một cách đồng bộ và chặt chẽ qua các giai đoạn lịch sử.

4.4. Đặc điểm thứ tư, hệ thống những vấn đề lý luận của các quan điểm giống nhau trong khoa học luật hình sự của một nhóm của các nhà hình sự học phải được đánh giá như là những luận điểm luật hình sự riêng biệt, mang tính học thuật rõ rệt và được thừa nhận chung ở các mức độ nhất định.

 

5. Phân biệt sự giống và khác nhau của học thuyết với trường phái trong khoa học luật hình sự

So sánh hai khái niệm (học thuyết và trường phái) trong khoa học luật hình sự đã được phân tích trên đây có thể rút ra sự giống nhau và khác nhau dưới đây.

5.1. Sự giống nhau của hai khái niệm này là:

1) Chúng đều là hệ thống những vấn đề lý luận trong khoa học luật hình sự;

2) Hệ thống những vấn đề lý luận này phải được hình thành và phát triển một cách đồng bộ và chặt chẽ;

3) Hệ thống những vấn đề lý luận này trong khoa học luật hình sự phải được đánh giá như là những tư tưởng – đối với khái niệm thứ nhất (hoặc luận điểm – đối với khái niệm thứ hai) luật hình sự riêng biệt, mang tính học thuật rõ rệt và được thừa nhận chung ở các mức độ nhất định.

5.2. Sự khác nhau của hai khái niệm này là:

Học thuyết trong khoa học luật hình sự

Trường phái trong khoa học luật hình sự

a. Là hệ thống những vấn đề lý luận của các học giả thuộc các trường phái khác nhau về (hoặc liên quan đến): 1) Đạo luật hình sự, 2) Tội phạm, 3) Trách nhiệm hình sự, 4) Hình phạt, 5) Biện pháp tha miễn, cũng như 6) Một (hoặc nhiều) chế định pháp lý hình sự nào đó.

b. Hệ thống những vấn đề lý luận của các học giả thuộc các trường phái khác nhau đó được hình thành và phát triển một cách đồng bộ và chặt chẽ qua các thời kỳ lịch sử.

c. Hệ thống những vấn đề lý luận của các học giả thuộc các trường phái khác nhau đó được đánh giá với tư cách là những tư tưởng luật hình sự riêng biệt.

d. Ví dụ: Học thuyết về tội phạm hay học thuyết về hình phạt trong khoa học luật hình sự.

a. Là hệ thống những vấn đề lý luận của một nhóm các học giả có cùng chung một hướng (hoặc phương pháp luận) nghiên cứu thuộc cùng một hệ quan điểm giống nhau về (hoặc liên quan đến): 1) Đạo luật hình sự, 2) tội phạm, 3) Trách nhiệm hình sự, 4) Hình phạt, 5) Biện pháp tha miễn, cũng như 6) một (hoặc nhiều) chế định pháp lý hình sự nào đó.

b. Hệ thống những vấn đề lý luận của một nhóm các học giả có cùng chung một hướng (hoặc phương pháp luận) nghiên cứu thuộc cùng một hệ quan điểm giống nhau đó được hình thành và phát triển một cách đồng bộ và chặt chẽ qua các giai đoạn lịch sử.

c. Hệ thống những vấn đề lý luận của một nhóm các học giả có cùng chung một hướng (hoặc phương pháp luận) nghiên cứu thuộc cùng một hệ quan điểm giống nhau đó được đánh giá với tư cách là những luận điểm luật hình sự riêng biệt.

d. Ví dụ: Trường phái cổ điển hay trường phái xã hội học trong khoa học luật hình sự.

6. Nội dung chính của các trường phái chủ yếu trong khoa học luật hình sự

Phân tích các công trình nghiên cứu trong khoa học luật hình sự trên thế giới, chúng ta có thể chỉ ra nội dung chính của 4 (bốn) trường phái chủ yếu dưới đây.

* Trường phái khai sáng – nhân đạo có nội dung chủ yếu là:

6.1. Phê phán bản chất đàn áp và dã man của luật hình sự phong kiến nói riêng, cũng như của toàn bộ cái gọi là nền “tư pháp” hình sự tàn bạo và bất công của Nhà nước phong kiến chuyên chế, độc tài và vô pháp luật nói chung; luận chứng cho những nền tảng tư tưởng của một loạt các nguyên tắc luật hình sự quan trọng (như: Nhân đạo, pháp chế, công minh, không tránh khỏi trách nhiệm), cũng như việc phải đảm bảo kỹ thuật lập pháp, sự bình đẳng, chân lý khách quan, các quyền và tự do của con người.

6.2. Theo quan điểm của Sarl Mônteckiơ (1689 – 1755) thì: 1) Luật hình sự cần phải xây dựng trên cơ sở nguyên tắc hành vi với tư cách là nguyên tắc quan trọng nhất chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự một người vì đã thực hiện hành vi bên ngoài, mà không được truy cứu trách nhiệm hình sự người đó chỉ vì những lời nói hay những ý nghĩ, khi người đó chưa thực hiện một hành vi nào cụ thể; 2) Phải hạn chế giới hạn của các hành vi bị xử phạt về hình sự (nhất là trong lĩnh vực tự do tín ngưỡng); 3) Hình phạt được Toà án quyết định đối với người phạm tội phải tương xứng với tội phạm mà người đó đã thực hiện và chính vì vậy, luật hình sự cần quy định chính xác tội phạm để Thẩm phán không thể né tránh được lời văn của điều luật.v.v.

6.3. Theo quan điểm của Volte (1694 – 1778) thì: 1) Việc hoàn thiện pháp luật hình sự phải gắn với việc ngăn ngừa tình trạng phạm tội; 2) Pháp luật hình sự không nên quy định hình phạt tử hình, phải đảm bảo sự tương xứng giữa tội phạm và hình phạt, giữa tính nghiêm trọng của tội phạm và tính nghiêm khắc của hình phạt; 3) Việc truy bức của nhà thờ tin lành đối với những người khác quan điểm về tín ngưỡng tôn giáo chính là sự truy bức dã man nhất và nó trái với lý trí của nhân loại, vì nếu như các Toà án pháp đình của đạo Thiên chúa giáo đã kết án tử hình hàng trăm nghìn “phù thuỷ” do họ tưởng tượng ra, cũng như vô số những người bị coi là “tà đạo” nữa bị giết hại bằng các vụ tàn sát của các Toà án này, thì sẽ đến lúc trên thế giới chỉ còn có những tên đao phủ và những nạn nhân ở xung quanh các vị quan toà và các khán giả.v.v.

6.4. Theo quan điểm của Giăng Pôl Marát (1743 – 1793) thì: 1) Các đạo luật hình sự phải được công bố công khai cho tất cả mọi người đều biết, phải công minh, sáng suốt và dễ hiểu, mà không cần sợ sự chính xác nào hay sự đơn giản nào là thừa, các đạo luật ấy không nên tạo ra ấn tượng tuỳ tiện, khó hiểu và không xác định về tội phạm và hình phạt; vấn đề quan trọng là làm sao cho mỗi người có thể hoàn toàn hiểu được chúng và biết rằng anh ta sẽ bị gì nếu như vi phạm chúng; b) Các đạo luật hình sự chỉ nên cấm những điều gì có hại cho xã hội, vì bất kỳ sự thích thú nào của nhà làm luật về số lượng các điều cấm về hình sự hay sự cấm đoán hành vi nào mà không hại cho những người xung quanh thì đều có thể dẫn đến sự phủ nhận của chính các đạo luật ấy; 3) Căn cứ vào nội dung của từng đạo luật không nhất thiết phải chấp hành một cách tuyệt đối mà trái lại, có thể được vi phạm các đạo luật không công minh, nhất là các đạo luật của chế độ độc tài cần phải bị lật đổ, và vì sự vi phạm như thế mà chính quyền nào trừng phạt thì đó là chính quyền bạo ngược, còn Thẩm phán nào kết án tử hình thì đó là kẻ giết người đê tiện.v.v.

6.5. Theo quan điểm của Treraze Beccaria (1738 – 1794) thì: 1) Cần phải phân công rõ ràng chức năng của hai nhánh quyền lực (lập pháp và tư pháp), tức là việc quy định trong luật hành vi nào là tội phạm và hình phạt đối với hành vi đó ra sao (?) – phải và chỉ là thẩm quyền của nhà làm luật, còn phán xét xem một người có phạm tội hay không và nếu phạm tội thì sẽ tương xứng với loại và mức hình phạt cụ thể nào (?) – là thẩm quyền của Toà án, chứ Toà án không thể quy định hình phạt và đồng thời cũng không được quyết định hình phạt ngoài phạm vi mà luật đã quy định; 2) Các luật hình sự chỉ có thể trừng phạt đối với những hành vi, chứ không được trừng phạt những ý định hoặc những lời phát ngôn của mọi người; vì thước đo duy nhất và thực sự của tội phạm chính là thiệt hại xảy ra đối với các lợi ích của xã hội; 3) Cần phải xây dựng một thang chung và chính xác của các tội phạm và các hình phạt để đảm bảo sự bình đẳng của hình phạt đối với tất cả các công dân, cũng như sự phù hợp giữa tội phạm được thực hiện và hình phạt; 4) Thang của các tội phạm chính là sự phân loại chúng theo mức độ nghiêm trọng, tác dụng của hình phạt không phải nằm trong sự tàn bạo, mà là trong sự không thể tránh khỏi nó một khi đã có lỗi trong việc thực hiện tội phạm; 5) Mục đích của hình phạt không phải là làm khiếp sợ con người, mà là ngăn ngừa bị cáo phạm tội lại và kìm giữ những người khác tránh khỏi việc phạm tội; 6) Dưới con mắt của mọi người hình phạt tử hình chỉ là biểu hiện của sự tàn bạo vì chức năng ngăn ngừa của hình phạt ấy chỉ có tính chất tưởng tượng, nó làm cho lối sống của người ta trở nên chai sạn hơn, tàn nhẫn hơn và suy cho cùng là thúc đẩy việc thực hiện những tội phạm mới.v.v.

* Trường phái cổ điển có nội dung chính là:

6.6. Hệ thống lý luận về các nguyên tắc, các chế định và các đảm bảo hiến định của pháp chế trong lĩnh vực luật hình sự với những tư tưởng và các quan điểm riêng có tính chất học thuật của trường phái này là:
1) Nguyên tắc chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi – bản chất của con người không phải là trong các ý muốn hoặc các ý định, mà là trong hoạt động của họ, nên con người chỉ có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm mà họ thực hiện, chứ không phải về âm mưu hoặc ý định phạm tội, đồng thời chỉ nên truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hậu quả của hành vi mà không nên căn cứ vào lỗi của người gây ra hậu quả đó.
2) Nguyên tắc nhân đạo – tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự của người trong khi thực hiện hành vi phải là tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự, đối với người này không được áp dụng hình phạt mà phải thay thế hình phạt bằng sự điều trị y khoa.
3) Nguyên tắc pháp chế – “Nulla poena sine lege” (không có hình phạt, nếu không có luật quy định), “Nulla poena sine crimen” (không có hình phạt, nếu không có tội phạm), “Nulla crimen sine poena legali” (không có tội phạm, không có hình phạt quy định trong luật), tức là cần xây dựng các chế tài xác định trong luật hình sự để hạn chế sự tuỳ tiện của Toà án; việc trấn áp về mặt hình sự cần phù hợp một cách chặt chẽ với các đòi hỏi pháp luật, còn pháp luật phải xác định dứt khoát và rõ ràng giới hạn các hành vi bị coi là những tội phạm, cũng như các hình phạt có thể được áp dụng đối với việc thực hiện tội phạm.
4) Nguyên tắc cá thể hoá và phân hoá trách nhiệm hình sự – cần phân biệt ý định độc ác (cố ý) với sự không thận trọng (vô ý) như là hai hình thức lỗi chủ yếu; phải giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự trên cơ sở các tiêu chí khách quan bên ngoài (Ví dụ: Mức độ trách nhiệm đối với phạm tội chưa đạt phải ít nghiêm khắc hơn đối với tội phạm hoàn thành, khi quyết định hình phạt đối với các hành vi của người xúi giục và giúp sức phải tính đến vai trò của họ trong việc thực hiện tội phạm).
5) Nguyên tắc công minh – tính chất nghiêm trọng của hình phạt cần phải được xác định bằng tính chất nghiêm trọng của hành vi (về khách quan), chứ không phải là bằng ý định phạm tội của người có lỗi (về chủ quan).

6.7. Từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX) ngay trong trường phái cổ điển đã xuất hiện xu hướng “cổ điển mới”, mà nội dung chủ yếu của nó là đưa ra những luận điểm mới nhằm làm giảm nhẹ việc trấn áp về mặt hình sự như: 1) Phải căn cứ vào các đặc điểm về nhân thân người phạm tội (bệnh tâm thần, độ tuổi) để đảm bảo việc cá thể hoá hình phạt; 2) Thừa nhận một số tình tiết làm giảm nhẹ lỗi.v.v.

* Trường phái xã hội học có nội dung chính là:

6.8. Theo luận thuyết về các yếu tố của tình trạng phạm tội thì tình trạng phạm tội là một hiện tượng xã hội vĩnh cửu, còn tội phạm là kết quả của sự tác động qua lại của ba nhóm yếu tố: 1) Các yếu tố cá nhân (sinh học) – tuổi tác, giới tính, trình độ văn hoá, hoàn cảnh gia đình, các đặc điểm tâm, sinh lý của con người; 2) các yếu tố xã hội – môi trường sống (thành phố, nông thôn), nghề nghiệp, sắc tộc, tôn giáo, những điều kiện về nhà ở, tình trạng nghiện ngập, nghèo khổ, thất nghiệp, mãi dâm; 3) Các yếu tố vật lý – khí hậu, thời tiết, các mùa trong năm.v.v.

6.9. Xuất phát từ luận thuyết đã nêu trên, trường phái này đã đưa ra những luận điểm khác nhau về hệ thống các biện pháp ngăn ngừa tình trạng phạm tội như: 1) Thành lập các thị trường lao động, thúc đẩy việc di dân, bảo trợ các trẻ em lang thang, chăm sóc những người già cả, bị bệnh tật và tàn phế, các địa phương phải có trách nhiệm quan tâm đến những người nghèo khổ (Prins); 2) Tác động đến môi trường thúc đẩy bằng các biện pháp phòng ngừa có tính chất xã hội như đấu tranh với tình trạng nghèo khổ, nghiện ngập và các bệnh xã hội (Lakassan); 3) Một số nhà xã hội học khác còn đề nghị thay thế hình phạt bằng các biện pháp nhằm ngăn ngừa một số loại tội phạm (tổ chức công việc công cộng trong những thời kỳ đói kém hoặc những mùa đông giá lạnh để hạn chế tội trộm cắp, tổ chức một cách đúng đắn và hợp lý việc mãi dâm để chống những tội phạm về tình dục).v.v.

6.10. Trường phái này còn đưa ra các kiến giải nhân đạo nhằm làm cho việc trấn áp về hình sự đạt được sự mềm dẻo, có hiệu quả và “tiết kiệm” hình phạt như: 1) Thành lập các Toà án chuyên xét xử các vụ án của những người chưa thành niên; 2) Chế định án treo và chế định tha miễn trước thời hạn có điều kiện cần phải được áp dụng rộng rãi; 3) Không nên xử phạt tù ngắn hạn để loại trừ ảnh hưởng có hại của các nhà tù đối với những người bị kết án.

6.11. Bên cạnh các ưu điểm trên đây, từ giữa thế kỷ XX ngay trong lòng trường phái này đã hình thành một trào lưu tư tưởng mới với hai luận thuyết chủ yếu là: 1) Thuyết về “tình trạng nguy hiểm” của nhân thân (do hai giáo sư F.List và A.Gramachika khởi xướng) và; 2) Thuyết về “tự về xã hội mới” (do luật gia Pháp Mark Ansel đề xướng).

* Trường phái nhân chủng học có nội dung chính là:

6.12. Trên nền tảng triết học của chủ nghĩa duy vật tầm thường, đồng thời căn cứ vào các quan sát về những phạm nhân và sự so sánh các số liệu nhân chủng học của họ với những người khác (quân nhân, sinh viên.v.v.), Lombrôzo và những người theo trường phái này đã khẳng định rằng: 1) Tình trạng phạm tội là hiện tượng sinh học tồn tại vĩnh cửu và không thay đổi trong xã hội loài người, cũng như trong thế giới động vật và cả thực vật nữa; 2) Chính các yếu tố tự nhiên – sinh học (chứ không phải môi trường xã hội) đã có ảnh hưởng quyết định đối với cách xử sự có tính chất tội phạm của nhân thân; 3) Trong xã hội có một loại người đặc biệt khác với các công dân bình thường do bản chất của họ ngay từ lúc mới sinh ra đã là những kẻ phạm tội và không thể nào cải tạo được; 4) Chúng ta có thể dễ dàng nhận biết loại người này bằng các dấu hiệu nhân chủng học đặc trưng mà chỉ riêng ở họ mới có (Ví dụ: a) ở những kẻ sát nhân – dáng người cao, răng dài, đôi môi mỏng, mũi diều hâu…, b) ở những kẻ trộm cắp – đôi mắt thường không đứng yên tại một chỗ mà hay đảo qua đảo lại và ít có râu quai nón, c) ở những kẻ hay phạm các tội tình dục – đôi môi dày, tóc dài, d) Còn ở những kẻ phạm tội mà bị rối loạn tâm thần đa nhân cách – cơ thể có nhiều lông lá, mặt đen, mắt trắng, môi thâm, tính khí thất thường – hay thay đổi – lúc thì cáu bẳn, lúc thì nói lẩm bẩm hoặc lúc thì cười một mình.v.v.).

6.13. Từ thuyết trên đây về tình trạng phạm tội và “con người tội phạm”, trường phái này đã đưa ra những luận điểm cơ bản như: 1) Cần cách ly vĩnh viễn khỏi xã hội những người “ngay từ lúc sinh ra đã là những kẻ phạm tội” bằng cách đưa đi đày biệt xứ đến nơi khổ sai hoặc các hòn đảo xa xôi không có người ở; 2) Để ngăn ngừa các tội phạm về tình dục, thì cần phải thiến hoặc tiêm thuốc đối với những kẻ phạm các tội này, cũng như những người bị coi là “tâm thần về tình dục”; 3) Cần thay thế Toà án với thành phần là các luật gia bằng Uỷ ban các Giám định viên với thành phần là các bác sỹ, các nhà tâm lý học và các nhà tâm thần học để xác định xem ở chủ thể nào có các đặc điểm nhân chủng học của “con người tội phạm” thì quyết định việc áp dụng các biện pháp an ninh đối với họ; 4) Việc thực hiện tội phạm của chủ thể không phải là căn cứ duy nhất để truy cứu trách nhiệm hình sự mà chỉ là lý do để nghiên cứu kỹ về “tình trạng nguy hiểm” nhân thân xem nguyên nhân có phải chủ thể là “con người tội phạm” từ lúc mới sinh ra không hay là do các nguyên nhân khác.v.v.

6.14. Bằng những luận điểm cơ bản trên đây, trường phái này đã phủ nhận các khái niệm, các nguyên tắc và các chế định truyền thống của luật hình sự (như: Khái niệm cấu thành tội phạm, sự cần thiết phải phân hoá các loại tội phạm và các dấu hiệu định khung tăng nặng của chúng mà chỉ cần phân loại những người phạm tội trong Bộ luật Hình sự căn cứ vào “tình trạng nguy hiểm” của nhân thân họ, tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự như là tiền đề cần thiết của trách nhiệm hình sự, nguyên tắc pháp chế “Nullum crimen, nulla poena sine lege”, nguyên tắc lỗi, nguyên tắc công minh, chế định về các giai đoạn thực hiện tội phạm, chế định đồng phạm.v.v.).

6.15. Hiện nay, trên nền tảng của trường phái này, trong khoa học luật hình sự của một số nước đã xuất hiện một số luận thuyết sinh học – tâm lý về các nguyên nhân của tình trạng phạm tội mà người ta thường gọi là các thuyết “lombrôzo mới”. Nội dung chủ yếu của các thuyết này phản ánh các đặc điểm về sinh học – di truyền học (Ví dụ: Các gien của tính chất tội phạm có ở một số loại người nhất định trong xã hội, chúng mang đặc tính di truyền và có thể ảnh hưởng đến nhiều thế hệ kế tiếp nhau).

 

III. Kết luận

Việc nghiên cứu những vấn đề nhập môn cơ bản của học thuyết về tội phạm trong bài viết này, cho phép đưa ra những kết luận chung sau đây:

Một là, học thuyết trong khoa học luật hình sự là hệ thống những vấn đề lý luận của các học giả thuộc các trường phái khác nhau về (hoặc liên quan đến) đạo luật hình sự, tội phạm, trách nhiệm hình sự, biện pháp tha miễn hoặc (và) hình phạt, cũng như một (hoặc nhiều) chế định pháp lý hình sự nào đó, được hình thành và phát triển một cách đồng bộ và chặt chẽ qua các thời kỳ lịch sử với tư cách là những tư tưởng về luật hình sự riêng biệt, mang tính học thuật rõ rệt và được thừa nhận chung ở các mức độ nhất định.

Hai là, trường phái trong khoa học luật hình sự là một hệ thống những vấn đề lý luận của một nhóm các học giả có cùng chung một hướng (hoặc phương pháp luận) nghiên cứu thuộc cùng một hệ quan điểm giống nhau về (hoặc liên quan đến) đạo luật hình sự, tội phạm, trách nhiệm hình sự, biện pháp tha miễn hoặc (và) hình phạt, cũng như một hoặc nhiều chế định pháp lý hình sự nào đó.v.v., được hình thành và phát triển một cách đồng bộ và chặt chẽ qua các giai đoạn lịch sử với tư cách là những luận điểm luật hình sự riêng biệt, mang tính học thuật rõ rệt và được thừa nhận chung ở các mức độ nhất định.

Ba là, so sánh hai khái niệm “học thuyết” (1) và “trường phái” (2) trong khoa học luật hình sự đã được phân tích trên đây, cần phải có sự nhận thức khoa học về các đặc điểm cơ bản giống nhau và khác nhau của chúng.

Bốn là, từ sự phân tích các quy phạm và các chế định khác nhau trong pháp luật hình sự (thực định), cũng như một số công trình nghiên cứu cơ bản về tội phạm trong khoa học luật hình sự của Việt Nam và của nước ngoài, cần phải đi đến sự thống nhất rằng: Học thuyết về tội phạm có 9 (chín) bộ phận cấu thành (phần) tương ứng với những nhóm vấn đề lý luận cơ bản về (hoặc có liên quan đến) tội phạm được nghiên cứu như đã nêu trên đây.

Năm là, để góp phần phát triển khoa học luật hình sự và phục vụ cho thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự ở Việt Nam, học thuyết về tội phạm với tư cách là hệ thống những vấn đề lý luận về (hoặc có liên quan đến) 9 bộ phận cấu thành (phần) đã được chỉ ra trên đây, cần phải được các luật gia – hình sự học nước ta tiếp tục nghiên cứu một cách chuyên khảo, đồng bộ sâu sắc và toàn diện hơn nữa./.

 

TSKH. PGS. Lê Cảm, Khoa Luật ĐHQG Hà Nội
Tạp chí Kiểm sát số 11, 13/2008
(1) Xem: Resetnhikôv F.M. Hệ thống pháp luật của các nước trên thế giới. Sách tra cứu. Nxb Sách pháp lý. Maxcơva, 1993, tr.105 (tiếng Nga).

đánh giá bài viết

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền