Tóm tắt: Hoàn thiện pháp luật về xác định giá trị doanh nghiệp trong hoạt động tái cơ cấu tổ chức tín dụng là việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng và lĩnh vực liên quan điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình xác định giá trị tổ chức tín dụng gắn với hoạt động tái cơ cấu nhằm đảm bảo tổ chức tín dụng đảm bảo và duy trì năng lực của mình trong hoạt động ngân hàng, đồng thời đảm bảo quyền, nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan phát sinh trong quá trình định giá và tái cơ cấu tổ chức tín dụng. Bài viết phân tích quan niệm, tiêu chí và mục tiêu hoàn thiện pháp luật về xác định giá trị doanh nghiệp trong hoạt động tái cơ cấu tổ chức tín dụng.
Abstract: Improvement of the legal regulations on valuation of enterprise in the credit institution restructure is the amendments of provisions in the laws on banking and on the related fields in social relations that arise in the process of valuation of credit institutions in association with restructuring activities. It is to ensure that the credit institutions is capable to maintain their capacity in banking performance. It is also to ensure their rights and obligations of the related stakeholders in the process of valuation and restructure of the credit institutions. This article provides the analysis of the conception, criteria and objectives of improvement of the law on valuation of enterprise in the credit institution restructure.
Mục lục:
1. Quan niệm về xác định giá trị doanh nghiệp trong mối quan hệ tái cơ cấu tổ chức tín dụng
1. Quan niệm về xác định giá trị doanh nghiệp trong mối quan hệ tái cơ cấu tổ chức tín dụng
Thuật ngữ “tái cơ cấu” hiện đang được sử dụng khá phổ biến và cũng có nhiều cách hiểu khác nhau. Theo nhà nghiên cứu Micheal Hammer và James Champy, tái cơ cấu là “hoạt động xem xét và cấu trúc lại một phần hay toàn bộ một tổ chức, đơn vị nào đó”[1]. Dưới góc độ lý thuyết, ngoài việc thiết lập các chức năng và xem xét các nhiệm vụ của từng bộ phận, chúng ta còn phải chú ý tới các quy trình hoàn thiện từ khâu nguyên liệu cho tới sản xuất, tiếp thị và phân phối[2]. Tác giả Cameron quan niệm, tái cơ cấu là một loạt các hoạt động do một tổ chức thiết kế và tiến hành nhằm tăng tính hiệu suất, năng suất lao động và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Tái cơ cấu có thể xảy ra trên ba mức độ: (i) Mức độ toàn cầu (vĩ mô), ví dụ như tái cơ cấu các nước Đông Âu cũ, tái cơ cấu nền kinh tế; (ii) Mức độ tổ chức (chiến lược), ví dụ như thay đổi chiến lược của công ty, phân khúc thị trường, sản phẩm; và (iii) Mức độ vi mô (cá nhân) như vấn đề liên quan đến căng thẳng cá nhân như mất việc[3]…
Theo McKinley, Scherer[4] và Bowman, Singh[5], tái cơ cấu doanh nghiệp là sự định hình lại về cấu trúc của doanh nghiệp, gắn liền với sự thay đổi về các chiến lược kinh doanh và các hoạt động tác nghiệp bên trong doanh nghiệp. Các tác giả này cho rằng, có ba loại tái cơ cấu doanh nghiệp, gồm: tái cơ cấu tổ chức doanh nghiệp, tái cơ cấu danh mục đầu tư và tái cơ cấu hoạt động tài chính.
Thông thường, tái cơ cấu thường chỉ được thực hiện khi đà phát triển của doanh nghiệp bị chặn lại hoặc ở trường hợp xấu hơn là bắt buộc phải làm để tồn tại, tránh bị phá sản[6]. Có nhiều trường hợp tái cơ cấu trong hoàn cảnh bắt buộc như vậy đã giúp doanh nghiệp chuyển mình, nhưng đa phần các doanh nghiệp gặp phải rất nhiều khó khăn, thậm chí rơi vào thất bại. Như vậy, để tái cơ cấu thành công, doanh nghiệp phải chủ động thực hiện từ sớm, khi đó, doanh nghiệp có thể đề ra kế hoạch và lộ trình rõ ràng, chính xác, không bị áp lực trong tình huống nguy cấp khiến việc triển khai bị chệch hướng, mất kiểm soát. Các hoạt động tái cơ cấu doanh nghiệp không chỉ bao gồm sắp xếp lại cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp thông qua việc xây dựng lại sơ đồ cơ cấu tổ chức, thay đổi các phòng ban chức năng với những tên gọi mới, tái cơ cấu còn quan tâm đến tính hệ thống và chuyên nghiệp trong phương thức thực hiện, phối hợp và điều hành công việc. Theo đó, tái cơ cấu có thể ở các cấp độ khác nhau, cấp độ cao là sự thay đổi tầm nhìn, chiến lược, cơ cấu lại toàn bộ tổ chức có tính hệ thống; cấp thấp là sự chuyển đổi, sắp xếp lại, đổi mới quy trình hoạt động và cũng có thể bao gồm cả hai cấp, vừa làm thay đổi tầm nhìn chiến lược, vừa thực hiện tổ chức sắp xếp lại doanh nghiệp[7].
Tổ chức tín dụng (TCTD) là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. TCTD bao gồm ngân hàng, TCTD phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân[8]. TCTD có vị trí là một trung gian tài chính, với chức năng cơ bản là truyền dẫn vốn từ những nơi tạm thời nhàn rỗi đến những nơi có nhu cầu về vốn thực hiện đầu tư, sản xuất, kinh doanh nhằm tạo ra giá trị gia tăng cho cá nhân, tổ chức và xã hội. Với đối tượng kinh doanh trực tiếp là tiền tệ, các hoạt động ngân hàng do TCTD thực hiện chứa đựng rủi ro cao và rủi ro mang tính phản ứng dây chuyền. Ở mức độ cao của sự rủi ro, hoạt động của các TCTD có khả năng dẫn tới khủng hoảng kinh tế – xã hội. Thêm vào đó, về cơ cấu tài chính và tài sản, TCTD là doanh nghiệp có quy mô lớn (vốn chủ sở hữu và tổng tài sản lớn), nguồn vốn của các TCTD chứa đựng nhiều khoản nợ được huy động từ bên ngoài. Bởi vậy, hệ số nợ của các TCTD cao và cơ cấu tài sản của TCTD thường đặc biệt. Những đặc thù này đòi hỏi các TCTD phải có biện pháp quản lý phù hợp và thường xuyên phải sắp xếp, cơ cấu lại.
Khái niệm tái cơ cấu TCTD được các nhà nghiên cứu đề cập trong bối cảnh nền kinh tế gặp khó khăn, khủng hoảng, các TCTD hoạt động kinh doanh trì trệ, kém hiệu quả. Trên thế giới, như Claudia Dziobek và Ceyla Pazarbasiogle định nghĩa, tái cơ cấu TCTD nói chung, tái cơ cấu ngân hàng thương mại nói riêng là biện pháp hướng tới mục tiêu nâng cao hiệu suất hoạt động của TCTD, bao gồm phục hồi khả năng thanh toán, khả năng sinh lời, cải thiện năng lực hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng để làm tròn trách nhiệm của một trung gian tài chính và khôi phục lòng tin của công chúng. Theo đó, tái cơ cấu TCTD bao gồm tái cơ cấu tài chính, tái cơ cấu hoạt động và giám sát an toàn[9]. Tái cơ cấu tài chính thường hướng đến việc phục hồi khả năng thanh toán bằng cách cải thiện bảng cân đối của các TCTD thông qua các biện pháp như tăng vốn, giảm nợ hoặc nâng giá trị tài sản. Tái cơ cấu hoạt động hướng đến mục tiêu nâng mức lợi nhuận bằng cách chú trọng đến chiến lược hoạt động, cải thiện hiệu quả, năng lực quản lý và hệ thống kế toán, nâng cao năng lực thẩm định tín dụng. Việc giám sát các quy tắc an toàn được đặt ra nhằm cải thiện năng lực hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng dưới vai trò của một trung gian tài chính.
2. Quan niệm về hoàn thiện pháp luật về xác định giá trị doanh nghiệp trong hoạt động tái cơ cấu tổ chức tín dụng
Về lý thuyết, theo quan điểm pháp luật truyền thống, hệ thống pháp luật là “tổng thể các quy phạm pháp luật (QPPL) có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau, được phân định thành các chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản do Nhà nước ban hành theo những trình tự, thủ tục và hình thức nhất định”. Hệ thống pháp luật theo quan điểm này được xem xét theo hai góc độ:
Thứ nhất, tổng thể các QPPL là hệ thống cấu trúc (bên trong) của pháp luật, có mối quan hệ nội tại thống nhất với nhau.
Thứ hai, hệ thống các văn bản QPPL, được coi là hệ thống nguồn của pháp luật, là hình thức biểu hiện bên ngoài của pháp luật hay hình thức tồn tại của pháp luật. Quan điểm về nguồn luật của chúng ta hiện nay mới chỉ công nhận các văn bản pháp luật là nguồn luật nên hệ thống các văn bản pháp luật hay nguồn luật cũng chính là hệ thống pháp luật thực định[10].
Từ quan niệm như trên, có thể nhận định hoàn thiện pháp luật xác định giá trị doanh nghiệp trong hoạt động tái cơ cấu tổ chức tín dụng ở nước ta là việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng và lĩnh vực liên quan điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình xác định giá trị TCTD gắn với hoạt động tái cơ cấu nhằm đảm bảo TCTD đảm bảo và duy trì năng lực của mình trong hoạt động ngân hàng, đồng thời đảm bảo quyền, nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan phát sinh trong quá trình định giá và tái cơ cấu TCTD.
Về ý nghĩa, hoàn thiện pháp luật xác định giá trị doanh nghiệp trong hoạt động tái cơ cấu tổ chức tín dụng là hoạt động góp phần thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước trong quản lý và điều hành kinh tế. Trong Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2016-2020, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành trung ương Đảng khoá XII đặt ra nhiệm vụ phải đẩy mạnh cơ cấu tổng thể các ngành, trong đó nhấn mạnh cơ cấu thị trường tài chính, “nâng cao năng lực quản trị của các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật và phù hợp với thông lệ quốc tế”. Từ sau khủng hoảng kinh tế, hoạt động của hệ thống TCTD trên thị trường đã bộc lộ nhiều bất cập nội tại như tình trạng sở hữu chéo, nợ xấu. Do đó, bên cạnh triệt để thực hiện tái cơ cấu TCTD, hoàn thiện pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong kinh doanh ngân hàng chính là góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động và đảm bảo tính ổn định của thị trường. Pháp luật về đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trong kinh doanh ngân hàng bao hàm các quy định từ tiêu chuẩn, điều kiện thành lập TCTD, các tiêu chí an toàn cần đáp ứng của TCTD, và các quy định về hoạt động quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, do đó, hoàn thiện và đảm bảo hiệu quả thực thi các quy định pháp luật này đồng nghĩa với đảm bảo một thị trường tiền tệ hiệu quả. Bên cạnh đó, hoàn thiện pháp luật về xác định giá trị doanh nghiệp trong hoạt động tái cơ cấu TCTD nhằm tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu và của chính TCTD, cùng với đó đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng.
3. Tiêu chí hoàn thiện pháp luật xác định giá trị doanh nghiệp trong hoạt động tái cơ cấu tổ chức tín dụng
Tiêu chí là những chuẩn mực, dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết, xếp loại một sự vật, hiện tượng. Tiêu chí hoàn thiện pháp luật về bảm đảm thực hiện nghĩa vụ trong kinh doanh ngân hàng là những dấu hiệu, chuẩn mực dựa vào đó để nhận biết, đánh giá được mức độ hoàn thiện của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong kinh doanh ngân hàng.
Những tiêu chí đó – xét về lý thuyết, là những yếu tố làm nên giá trị của hệ thống; xét về mặt thực tiễn, là những điều kiện đòi hỏi công tác xây dựng pháp luật phải đáp ứng để bảo đảm và phát huy vai trò to lớn của pháp luật ngân hàng nói chung. Các tiêu chí được đặt ra bao gồm tiêu chí về nội dung, tiêu chí về hình thức và tiêu chí về tổ chức, thực hiện.
Một là, tiêu chí về nội dung. Pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong kinh doanh ngân hàng phải đáp ứng được các tiêu chuẩn về mặt nội dung cơ bản sau đây: có nội dung phù hợp với quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về phát triển thị trường tài chính; phù hợp với các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội tồn tại một cách khách quan. Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế đang phát triển nóng, kèm theo đó là xu thế hội nhập cao độ, đòi hỏi các doanh nghiệp phải thích ứng nhanh đồng thời đảm bảo khả năng nội tại. Điều này càng được đề cao trong hoạt động ngân hàng. Nền tài chính ở Việt Nam so với các nước còn non trẻ, sự can thiệp của Nhà nước vào thị trường còn lớn, do đó hoàn thiện pháp luật phải căn cứ trên tổng hoà các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội và từ nhu cầu của thị trường; phù hợp với những nguyên tắc, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, thể hiện ở những tiêu chí như tính công khai, minh bạch, dân chủ và xã hội hoá…; phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế, các điều kiện, tiêu chuẩn trong quan hệ thương mại quốc tế.
Hai là, tiêu chí về hình thức. Hệ thống pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong kinh doanh ngân hàng phải đảm bảo tính toàn diện và thống nhất. Tính toàn diện và hệ thống là tiêu chuẩn cơ bản thể hiện mức độ hoàn thiện của bất kỳ hệ thống pháp luật nào. Pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong kinh doanh ngân hàng cần được đặt không chỉ trong tổng hoà quy định pháp luật ngân hàng mà phải đảm bảo sự thống nhất của hệ thống pháp luật từ Hiến pháp là đạo luật gốc cho đến Luật Các tổ chức tín dụng và các luật có liên quan. Các QPPL về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong kinh doanh ngân hàng không mâu thuẫn, chồng chéo, triệt tiêu lẫn nhau, bảo đảm sự liên kết chặt chẽ, sự phối hợp tác động điều chỉnh của các văn bản theo một chiều, hướng nhất định. Tiếp đó, sửa đổi, bổ sung QPPL phải tuân thủ đúng thẩm quyền, quy trình xây dựng và ban hành văn bản QPPL, phải dựa trên điều kiện kinh tế, xã hội. Cùng với tính thống nhất, toàn diện, pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD cần bảo đảm hiệu quả và khả thi. Hoàn thiện pháp luật không chỉ về hình thức và nội dung, mà còn đánh giá sự tác động của các quy định pháp luật đối với chính trị, kinh tế – xã hội và hiệu quả của sự tác động đó.
Ngoài các tiêu chí trên, hoàn thiện pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong thực hiện hoạt động ngân hàng còn cần đảm bảo được tính thực thi.
4. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật luật xác định giá trị doanh nghiệp trong hoạt động tái cơ cấu tổ chức tín dụng
Với tư cách là một bộ phận thuộc thượng tầng kiến trúc, pháp luật ngân hàng điều chỉnh quan hệ xã hội có tính nhạy cảm cao, chứa đựng nhiều rủi ro. Đặc thù này đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt của việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật ngân hàng, bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng, vì sự an toàn của cả hệ thống TCTD và cả nền kinh tế.
Về mặt thực tiễn, Luật Ngân hàng nhà nước và Luật Các TCTD đã áp dụng trên thực tiễn trong một thời gian dài. Bên cạnh những kết quả đạt được trong điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực ngân hàng, bảo đảm an toàn hệ thống, đặc biệt trong việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của chủ thể kinh doanh trong quá trình hoạt động, pháp luật ngân hàng cũng đang bộc lộ những hạn chế, bất cập cần được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện.
Chính sách kinh tế thị trường định hướng XHCN, với các mục tiêu và định hướng chiến lược ngày càng được xác định rõ, chính là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt quá trình hoàn thiện pháp luật, trong đó có pháp luật ngân hàng và bộ phận pháp luật điều chỉnh về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong quá trình thực hiện hoạt động ngân hàng. Hơn nữa, do chính tính đặc thù của nó mà hoạt động của các TCTD không chỉ chịu sự điều chỉnh pháp luật ngân hàng mà còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật liên quan. Thực tế này không chỉ đặt ra yêu cầu về tính thống nhất của việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế nói chung mà còn đặt ra yêu cầu bảo đảm về tính thống nhất và tính liên thông trong việc điều chỉnh pháp luật về hoạt động ngân hàng. Đây cũng là một đòi hỏi khách quan của việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động ngân hàng.
Ngoài ra, hội nhập quốc tế và ngân hàng đang là xu thế khách quan do quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và sự phát triển của hoạt động ngân hàng. Quá trình nhất thể hoá thị trường tài chính tiền tệ quốc tế tất yếu dẫn tới việc tự do hoá hoạt động ngân hàng, gây tác động mạnh mẽ đến thị trường tài chính tiền tệ mỗi nước. Nó làm cho các chuẩn mực và chất lượng dịch vụ của hệ thống các ngân hàng một nước được cải thiện, tăng cường khả năng cạnh tranh và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, nâng cao khả năng thích ứng với quá trình hội nhập quốc tế. Hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ phải chịu những tác động to lớn của quá trình hội nhập quốc tế này trên cả hai phương diện cơ hội và thách thức. Do tác động của quá trình này, việc mở cửa thị trường tài chính tiền tệ Việt Nam sẽ cho phép khơi thông các kênh dẫn vốn quốc tế vào Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi để tiếp tục học hỏi công nghệ ngân hàng và trình độ kinh nghiệp quản lý kinh doanh. Bên cạnh đó, các hạn chế về vốn, tình trạng yếu kém về tài chính, sự yếu kém về công nghệ, trình độ quản lý và năng lực cạnh tranh, sự bất cập của hệ thống pháp luật cũng đang là thách thức không nhỏ trong quá trình hội nhập quốc tế. Đồng thời, quá trình này cũng đặt ra các yêu cầu, chuẩn mực pháp lý mới trong hoạt động ngân hàng, đặc biệt trong yêu cầu bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong quá trình hoạt động.
Đặc điểm và xu hướng này của đời sống quốc tế cũng đặt ra yêu cầu khách quan của việc định hướng hoàn thiện pháp luật ngân hàng nói chung và pháp luật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
5. Mục tiêu hoàn thiện pháp luật xác định giá trị doanh nghiệp trong hoạt động tái cơ cấu tổ chức tín dụng
Trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật của một quốc gia luôn là vấn đề khó khăn, phức tạp, đặc biệt là đối với lĩnh vực pháp luật vốn có nhiều biến động và phải chịu nhiều ảnh hưởng của xu thế hội nhập quốc tế cũng như thực tiễn nghiệp vụ kinh doanh như pháp luật về ngân hàng, đặc biệt là pháp luật xác định giá trị doanh nghiệp trong hoạt động tái cơ cấu TCTD. Điều đó như là một yếu tố đặc thù của pháp luật ngân hàng, do vậy, trong điều kiện nền kinh tế thị trường hội nhập của Việt Nam hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật về xác định giá trị doanh nghiệp và xác định giá trị doanh nghiệp gắn với tái cơ cấu TCTD phải xuất phát từ mục tiêu chủ yếu, mang tính thực tiễn và khoa học để trên cơ sở đó góp phần định hướng một cách hiệu quả cho việc hoàn thiện pháp luật này ở Việt Nam. Ở mức độ khái quát, có thể xác định các mục tiêu đó bao gồm:
Thứ nhất, giải phóng mọi tiềm năng sẵn có về nguồn lực tài chính của ngân hàng, bảo đảm bắt kịp xu hướng phát triển của ngân hàng trên thế giới, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Sự gia tăng các hoạt động tài chính tiền tệ quốc tế trong vòng hai thập kỷ qua đã cho thấy xu hướng phát triển của thị trường tài chính tiền tệ quốc tế và tác động của nó đối với nền tài chính tiền tệ mỗi nước. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ tin học và dịch vụ Internet đã kéo theo sự bùng nổ các hoạt động tài chính tiền tệ quốc tế. Sự tiến bộ của khoa học công nghệ đã làm xuất hiện thêm những công cụ tài chính mới. Việc gia tăng nhanh dung lượng thị trường tài chính ngân hàng cũng đồng thời làm xuất hiện những nhu cầu mới về sản phẩm tài chính, theo đó ảnh hướng đến việc xác định giá trị, tái cơ cấu TCTD.
Những sản phẩm tài chính đã hiện hữu trên thế giới như sự xuất hiện tiền ảo và chấp nhận giao dịch bằng tiền ảo ở các quốc gia trên thế giới đặt ra áp lực đối với Việt Nam: có chấp nhận sự tồn tại của tiền ảo và có cho phép giao dịch tiền ảo tồn tại trên lãnh thổ Việt Nam hay không[11]? Đây là những câu hỏi cần được làm rõ bằng chính sách và quy định pháp luật cụ thể.
Không chỉ dừng lại ở việc xuất hiện tiền ảo, các giao dịch ngân hàng điện tử, “ngân hàng số” do sự phát triển của công nghệ số đã dần trở nên phổ biến, sẽ trở thành hiện thực ở Việt Nam khi Nhà nước phát động “thời đại công nghệ 4.0” ở Việt Nam[12].
Thứ hai, việc hoàn thiện pháp luật phải nhằm mục tiêu tạo ra sự tương thích và phù hợp giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế, giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật của các quốc gia khác ở ngoài khu vực. Có thể nói, đây là mục tiêu khó khăn bởi chúng ta phải xây dựng mới các thiết chế cơ bản của nền kinh tế thị trường trên cơ sở nền tảng kiến thức và kinh nghiệm quản lý của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Lịch sử thế giới đã chứng minh, một quốc gia muốn phát triển và muốn khẳng định vị thế của mình thì phải mở cửa hội nhập một cách sâu rộng. Để đạt mục tiêu này, pháp luật phải có nhiều quy định được xây dựng trên cơ sở các chuẩn mực pháp lý quốc tế để luật hóa các phương pháp xác định giá trị tổ chức tín dụng với tư cách là mô hình doanh nghiệp đặc thù, không làm tổn hại đến lợi ích của các chủ sở hữu TCTD được đưa vào đánh giá cùng, không làm ảnh hưởng đến nhà đầu tư trong trường hợp có sự thay đổi chủ sở hữu khi tái cơ cấu. Việc tái cơ cấu TCTD cũng cần được ghi nhận bằng pháp luật các phương thức và quy trình tái cơ cấu để không gây ra phản ứng xã hội đồng thời không tổn hại cho Nhà nước (đối với trường hợp Nhà nước mua lại bắt buộc).
Thứ ba, bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng, quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. Trong bối cảnh kinh tế biến động, lại xuất phát từ đặc thù nhạy cảm, việc kiểm soát chặt chẽ hoạt động ngân hàng là rất cần thiết trong suốt quá trình định giá và tái cơ cấu TCTD. Bên cạnh việc đặt ra các quy định về xác định giá trị TCTD, quy định về tái cơ cấu TCTD cần phải tính đầy đủ những hậu quả kinh tế phát sinh khi TCTD bị tái cơ cấu bắt buộc và có phương án xử lý phù hợp./.
Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 14 (390), tháng 7/2019.
[1] Michael Hammer and James Champy (1993), Reengineering the corporation: A Manifesto for Business Revolution, Harper Business Books, New York, 1993
[2] Michael Hammer and Stanton, S. (1995), The Reengineering Revolution, Harper Collins, London, 1995.
[3] Cameron, K. (1994), Strategies for Successful Organizational Downsizing, Human Resource Mangament, 33, Summer, p. 189 – 211.
[4] McKinley W., Scherer A.G (2000), Some unanticipated consequences of organizational restructuring, Academy of Management Review, volume 25, no 4.
[5] Bowman E.H., Singh H. (1993), Corporate restructuring: reconfiguring the firm, Strategic Management Journal, volume 14.
[6] Thanh Kong (2017), Tái cấu trúc doanh nghiệp và những ví dụ điển hình trên sàn chứng khoán, http://cafef.vn/tai-cau-truc-doanh-nghiep-va-nhung-vi-du-dien-hinh-tren-san-chung-khoan-20170703171847017.chn, truy cập ngày 1/7/2018
[7] Dương Ngọc Quang (2013), Tái cơ cấu nền kinh tế: Từ lý luận đến thực tiễn tại Việt Nam, Tạp chí Tài chính, số 12/2013.
[8] Khoản 1 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[9] Claudia Dziobek, Ceyla Pazarbasioglu (1998), tlđd.
[10] PGS.TS. Đinh Dũng Sỹ, Quan niệm về một hệ thống pháp luật toàn diện, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 18 (179), tháng 9/2010.
[11] Đại biểu Quốc hội kiến nghị nên để Đại học FPT tiếp tục thí điểm Bitcoin, http://cafef.vn/dai-bieu-quoc-hoi-kien-nghi-nen-de-dai-hoc-fpt-tiep-tuc-thi-diem-bitcoin-20171101093909222.chn, truy cập ngày 1/11/2017.
[12] Ngày 6/11/2017, “Đề cập về sự phát triển của lĩnh vực thanh toán di động, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cho rằng, ngoài việc cần lắng nghe, đối thoại thì để hệ sinh thái thanh toán di động thành hiện thực, Chính phủ cam kết sớm thực thi hoàn thiện chính sách tài chính và công nghệ thông tin để triển khai mô hình Chính phủ điện tử, tạo điều kiện để Việt Nam mạnh lên bằng công nghệ thông tin. Ngoài ra, Chính phủ cũng hoàn thiện khung khổ pháp lý, đẩy mạnh phát triển đào tạo đội ngũ nhân lực chất lượng cao, cũng như đẩy mạnh quảng bá, truyền thông để giúp cho mọi chủ thể, người dân hiểu được tiện ích mang lại cho hệ sinh thái thanh toán di động”.
Để lại một phản hồi Hủy