Trong phạm vi bài viết này, tác giả nghiên cứu tính độc lập của công tác hòa giải, đối thoại tại Tòa án dựa trên các quy định của bản Dự thảo 2 Luật HGĐTTTA, ban hành ngày 27/5/2019 trong mối tương quan với pháp luật tố tụng. Qua đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần góp phần hoàn thiện Dự thảo và hạn chế sự chồng chéo giữa các văn bản này với nhau.
Hòa giải, đối thoại là một trong những phương thức, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự, hành chính hiệu quả. Trên tinh thần xây dựng, phát triển nền pháp lý dân sự, việc giải quyết các tranh chấp, bất đồng trong đời sống xã hội bằng hòa giải, thương lượng ngày càng được chú trọng. Một bước tiến mới trong công tác lập pháp của Việt Nam hiện nay là tiến tới xây dựng và ban hành Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án (Luật HGĐTTTA).
1. Những quy định của Dự thảo Luật HGĐTTTA trong mối tương quan với Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật Tố tụng hành chính
Trên tinh thần xây dựng Luật HGĐTTTA nhằm giải quyết các vụ việc dân sự và khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án độc lập với các quy định về hòa giải, đối thoại tại các văn bản luật khác. Thực tế cho thấy, một số quy định tại bản Dự thảo 2 đã chưa thể hiện được tính độc lập trong công tác hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
1.1. Về phạm vi điều chỉnh
Theo quy định tại Điều 1 Dự thảo Luật HGĐTTTA (sau đây viết là Dự thảo) nêu rõ phạm vi hòa giải, đối thoại bao gồm các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Có thể thấy, đây chính là các trường hợp được tiến hành hòa giải trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS 2015) và đối thoại trong Luật Tố tụng hành chính (Luật TTHC 2015). Theo đó, khi người khởi kiện, người yêu cầu nộp đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đến Tòa án giải quyết thì thủ tục hòa giải [1], đối thoại [2] tại Tòa án là thủ tục bắt buộc. Tuy nhiên, tác giả cho rằng, quy định trong Dự thảo Luật chưa thể hiện rõ tính bắt buộc hay không bắt buộc thông qua việc xác định phạm vi hòa giải, đối thoại. Cụ thể là, tại khoản 1 Điều 1 của Dự thảo nêu rõ phạm vi hòa giải, đối thoại: “…khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính và các bên đồng ý hòa giải, đối thoại tại Tòa án trước khi Tòa án thụ lý, giải quyết vụ việc”. Quy định này được hiểu là: Thủ tục hòa giải, đối thoại được tiến hành bởi Tòa án trước khi được Tòa án thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự, hành chính theo thủ tục tố tụng khi đương sự nộp đơn khởi kiện, đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính và các bên đương sự đồng ý hòa giải, đối thoại. Tác giả cho rằng việc sử dụng từ “và” trong câu “và các bên đồng ý hòa giải, đối thoại” là chưa thật sự chặt chẽ vì sẽ không xác định rõ hòa giải, đối thoại tại Tòa án là có bắt buộc hay không. Đồng thời không thể hiện được tính độc lập của Trung tâm này tại Tòa án.
Bên cạnh đó, quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8 Dự thảo quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hòa giải, đối thoại thì đương sự có quyền: “Đồng ý hoặc từ chối tham gia hòa giải, đối thoại”. Quy định này được hiểu, việc hòa giải, đối thoại này được các bên đương sự đồng ý thì Tòa án mới tiến hành hòa giải, đối thoại (nghĩa là không bắt buộc) mà không khẳng định rằng trong trường hợp đương sự không đồng ý hòa giải, đối thoại thì được tiến hành theo thủ tục tố tụng dân sự và tố tụng hành chính thông thường.
Ngoài ra, khoản 2 Điều 15 của Dự thảo quy định về thủ tục chuyển đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính để hòa giải, đối thoại tại Tòa án: “Tòa án nhận đơn, vào sổ nhận đơn, xác nhận việc nhận đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 191 Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 1 Điều 121 Luật Tố tụng hành chính”. Sau khi Tòa án đã tiến hành nhận đơn, tại khoản 3 Điều 15 Dự thảo quy định: “Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán làm công tác hòa giải, đối thoại xem xét đơn khởi kiện, đơn yêu cầu”. Quy định này đã cho thấy sự mâu thuẫn, không thống nhất với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8 như trên. Bởi vì, khoản 2 Điều 15 Dự thảo cho thấy, sau khi nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự, Chánh án Tòa án phân công cho Thẩm phán làm công tác hòa giải, đối thoại mà không thông qua thủ tục hỏi đương sự xem đương sự có đồng ý hòa giải, đối thoại không. Bên cạnh đó, cũng tại khoản 4 của Điều này xác định: Thẩm phán được phân công hòa giải, đối thoại xem xét đơn khởi kiện, yêu cầu sau đó sẽ phân công cho HGV, ĐTV trong danh sách của Tòa án và sau đó mới thông báo cho các bên liên quan biết. Quy định như trên sẽ mặc nhiên khẳng định công tác hòa giải, đối thoại là một thủ tục bắt buộc tại Tòa án trước khi Tòa án tiến hành giải quyết đơn theo thủ tục tố tụng.
Bên cạnh đó, tại khoản 2 Điều 1 cũng quy định về nhiệm vụ của hòa giải, đối thoại và một trong những vấn đề cần quan tâm là hòa giải, đối thoại trên cơ sở tôn trọng quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự. Như vậy, việc lựa chọn hòa giải, đối thoại trước khi thụ lý vụ việc dân sự bởi Tòa án hay không cũng phải dựa trên tinh thần “quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự” (nguyên tắc đặc trưng, mang tính kim chỉ nam trong tố tụng dân sự)[3].
1.2. Về địa điểm tiến hành hòa giải, đối thoại
Xuất phát từ tên được dự thảo là “Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án”. Dự thảo Luật cho thấy hoạt động hòa giải, đối thoại này được tiến hành tại trụ sở của Tòa, chịu sự quản lý trực tiếp của Tòa án. Quy định này cho thấy, hoạt động hòa giải, đối thoại mặc dù độc lập với quá trình tố tụng tại Tòa án nhưng về địa vị pháp lý lại là một bộ phận của Tòa án. Chính vì vậy, tại Điều 18 của Dự thảo quy định về địa điểm hòa giải, đối thoại được “tiến hành tại trụ sở Tòa án hoặc ngoài trụ sở Tòa án”.
Tác giả cho rằng, quy định có thể tiến hành ngoài trụ sở của Tòa án là chưa thật sự phù hợp. Bởi lẽ, HGV, ĐTV có thể bao gồm: Thẩm phán, Kiểm sát viên, những người giữ chức danh tư pháp khác đã nghỉ hưu; Luật sư, chuyên gia, nhà chuyên môn khác có ít nhất 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực công tác; những người có uy tín cao trong xã hội. Những người này được bổ nhiệm hoặc bổ nhiệm lại tham gia công tác hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Điều này có nghĩa là tại Tòa án cần phải có văn phòng riêng và đầu tư cơ sở vật chất bảo đảm hoạt động cho công tác hòa giải, đối thoại mà không làm ảnh hưởng đến công tác tố tụng chung tại Tòa án. Bên cạnh đó, bản chất của hòa giải, đối thoại là sự thỏa thuận, thể hiện ý chí, quan điểm của các bên tranh chấp, đòi hỏi HGV, ĐTV cần phải tiến hành hòa giải một cách công khai, minh bạch và bảo đảm tính khách quan. Như vậy, quy định có thể tiến hành hòa giải, đối thoại ngoài trụ sở của Tòa mà không quy định điều kiện hạn chế đối với trường hợp có thể tiến hành hòa giải, đối thoại ngoài trụ sở của Tòa án là chưa hợp lý.
1.3. Về đối tượng của hòa giải, đối thoại
Trong tố tụng dân sự [5] và tố tụng hành chính [6] đã quy định những trường hợp trả lại đơn khởi kiện, việc trả lại đơn khởi kiện được tiến hành trước khi có quyết định thụ lý vụ án. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án sẽ tiến hành các bước để giải quyết vụ án đó. Quy định này cho thấy, Tòa án chỉ tiến hành giải quyết các vụ án dân sự khi đảm bảo điều kiện thụ lý. Đối chiếu với Điều 15 Dự thảo quy định để được tiến hành hòa giải, đối thoại tại Tòa án khi vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính đảm bảo hai điều kiện: Thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; không thuộc trường hợp không được hòa giải, đối thoại.
Có thể thấy, đối với vụ việc không được hòa giải, đối thoại thì thủ tục hòa giải, đối thoại tiền tố tụng hoặc trong tố tụng đương nhiên sẽ không được tiến hành bởi bất kỳ chủ thể nào. Tuy nhiên, điều kiện “thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án” chưa đủ điều kiện để tiến hành hòa giải, đối thoại tại Tòa án trước khi Tòa án ra quyết định thụ lý vụ việc đó tại Tòa án. Bởi lẽ, trong trường hợp vụ việc đó thuộc thẩm quyền của Tòa án nhưng không đủ điều kiện để thụ lý giải quyết tại Tòa án (như: người khởi kiện không có quyền khởi kiện; chưa đủ điều kiện khởi kiện; vụ việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan có thẩm quyền…). Trong trường hợp này, Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu cho đương sự. Như vậy, có hai trường hợp có thể xảy ra:
Trường hợp 1: Nếu như vẫn tiến hành hòa giải, đối thoại trong khi chưa xem xét điều kiện để thụ lý giải quyết vụ việc đó tại Tòa án mà kết quả hòa giải, đối thoại này không thành thì Tòa án sẽ tiến hành thủ tục xem xét điều kiện thụ lý giải quyết vụ việc đó theo thủ tục tố tụng chung. Sau khi xem xét điều kiện thụ lý theo thủ tục tố tụng mà vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính đó lại không đủ điều kiện để thụ lý giải quyết, Tòa án trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu cho đương sự. Điều này dẫn đến các hoạt động cho công tác hòa giải, đối thoại đã tiến hành trở thành không có giá trị, gây tốn công sức, tiền của của Nhà nước. Quy định như vậy cho thấy đã không có sự thống nhất về mặt pháp luật và kéo theo thủ tục giải quyết phức tạp hơn.
Trường hợp 2: Kết quả hòa giải, đối thoại thành, trong khi vụ việc đó mặc dù thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhưng không đủ điều kiện thụ lý giải quyết. Dự thảo quy định đối với trường hợp hòa giải, đối thoại thành sẽ lập thành biên bản, sau đó Tòa án sẽ ra quyết định công nhận kết quả hòa giải, đối thoại thành và quyết định này có hiệu lực ngay, các bên không được kháng cáo, Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; quyết định sẽ được thi hành theo pháp luật Thi hành án dân sự. Như vậy, quy định như trên đã cho thấy công tác hòa giải, đối thoại và hiệu lực thi hành của hòa giải, đối thoại đã có sự mâu thuẫn, “đối đầu” đối với thủ tục tố tụng tại Tòa. Bởi lẽ, Tòa án muốn giải quyết vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính thông qua thủ tục tại Dự thảo này thì Tòa án cần phải xem xét vụ việc đó có đủ điều kiện để Tòa án giải quyết hay không. Nếu không đủ điều kiện để Tòa án giải quyết mà Tòa án lại tiến hành hòa giải, đối thoại thì chính Tòa án không có cơ sở, thẩm quyền để ban hành quyết định công nhận kết quả hòa giải, đối thoại thành đó để nó được thực thi trên thực tế.
1.4. Cách thức xử lý kết quả hòa giải, đối thoại
Như đã trình bày, kết quả hòa giải, đối thoại được tiến hành bởi Tòa án theo Dự thảo luật có thể rơi vào hai trường hợp: không thành hoặc thành.
Theo quy định tại Điều 26 của Dự thảo, nếu kết quả hòa giải, đối thoại không thành hoặc không tiến hành hòa giải, đối thoại được thì HGV, ĐTV chuyển đơn và tài liệu chứng cứ kèm theo cho Tòa án để Tòa án xem xét thụ lý vụ việc theo thủ tục chung của BLTTDS, Luật TTHC.
Trong trường hợp hòa giải, đối thoại thành thì kết quả hòa giải, đối thoại đó được lập thành biên bản sau đó được gửi ngay cho các bên tham gia hòa giải, đối thoại và lưu vào hồ sơ hòa giải, đối thoại. Tại khoản 1 Điều 24 Dự thảo quy định: “Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày lập biên bản ghi nhận kết quả, Thẩm phán phụ trách hòa giải, đối thoại ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành”. Tác giả cho rằng, thủ tục ra quyết định công nhận kết quả hòa giải, đối thoại thành như trên đã tiến hành một cách “vội vàng”. Bởi lẽ, sau khi biên bản hòa giải, đối thoại thành được lập và gửi ngay cho các đương sự và chỉ trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày lập biên bản thì Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải, đối thoại ấy. Đáng lý ra, sau khi lập biên bản hòa giải, đối thoại thành, Tòa án sẽ gửi biên bản này cho các bên liên quan để họ xem xét lại các nội dung họ đã thỏa thuận và họ có quyền thay đổi ý kiến đã thỏa thuận trong một thời hạn nhất định. Nếu như trong thời hạn nhất định đó [4] mà không có ai thay đổi ý kiến đã thỏa thuận thì Tòa án mới ra quyết định “Công nhận kết quả hòa giải, đối thoại thành”. Khoản 4 Điều 24 đã chỉ rõ quyết định trên có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, quyết định này sẽ được thi hành theo pháp luật thi hành án dân sự, thi hành án hành chính. Như vậy, trong khoảng thời gian 03 ngày như Dự thảo quy định như trên là khoảng thời gian chưa hợp lý.
Với quy định trên, tác giả cho rằng chưa thật sự phù hợp và khoa học trong việc xử lý kết quả hòa giải, đối thoại thành. Bởi lẽ, theo Tờ trình về dự án Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án của Tòa án nhân dân tối cao đã xác định vai trò của hòa giải, đối thoại thành là“giúp giải quyết triệt để, hiệu quả các tranh chấp mà không phải mở phiên tòa xét xử; kết quả hòa giải thành, đối thoại thành phần lớn được các bên tự nguyện thi hành; vụ việc không phải trải qua thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm theo quy định của các luật tố tụng; tiết kiệm chi phí, thời gian, công sức của các bên liên quan và Nhà nước; hạn chế tranh chấp, khiếu kiện kéo dài, gây bức xúc trong dư luận”. Qua đó cho thấy, nếu hòa giải, đối thoại thành có ý nghĩa hết sức to lớn, không chỉ giúp các bên hiểu nhau hơn, giữ gìn được các mối quan hệ tốt đẹp vốn có mà còn tránh việc khiếu kiện giải quyết các vụ việc dân sự, hành chính tại Tòa án.
2.Một số kiến nghị, góp ý nhằm hoàn thiện Dự thảo Luật HGĐTTTA
2.1. Quy định theo hướng Tòa án chỉ tiến hành hòa giải, đối thoại khi đương sự có yêu cầu
Để đảm bảo hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án là hoạt động độc lập, không phụ thuộc vào cơ chế hoạt động của Tòa án. Đồng thời nhằm đảm bảo các quy định tại Dự thảo có sự thống nhất trong việc xác định hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án là thủ tục không bắt buộc, Dự thảo cần xác định lại phạm vi điều chỉnh của Luật HGĐTTTA theo hướng: Tại đoạn 2 khoản 1 Điều 1 của Dự thảo cần thay từ “và” bằng từ “mà” cụ thể: “Phạm vi hòa giải, đối thoại theo quy định của Luật này được thực hiện đối với các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn (sau đây gọi chung là vụ việc dân sự), khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính mà các bên đồng ý hòa giải, đối thoại tại Tòa án trước khi Tòa án thụ lý, giải quyết vụ việc”.
Sự thay đổi trên nhằm hướng tới khẳng định hoạt động hòa giải, đối thoại được tiến hành tại Tòa án là hoạt động độc lập, chỉ tiến hành hòa giải, đối thoại nếu như các bên đương sự đồng ý.
2.2. Hoạt động hòa giải, đối thoại phải được diễn ra tại trụ sở của Tòa án, chỉ tiến hành ngoài trụ sở của Tòa án khi có các điều kiện nhất định. Dự thảo cần quy định và đưa ra giới hạn nhất định đối với các trường hợp có thể tiến hành hòa giải, đối thoại ngoài trụ sở của Tòa án (ví dụ: đương sự gặp trở ngại khách quan về tính mạng, sức khỏe; đương sự là người già yếu, người khuyết tật khó khăn trong việc di chuyển,…) nhằm hướng tới đảm bảo công bằng cho các bên tranh chấp, hoạt động hòa giải được công khai minh bạch.
2.3. Tòa án chỉ tiến hành hòa giải, đối thoại khi vụ việc đó thuộc thẩm quyền của Tòa án và không bị trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu
Cần xác định rõ điều kiện để tiến hành hòa giải, đối thoại tại Tòa án phải bảo đảm đồng thời các điều kiện thụ lý giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án. Theo đó, cần điều chỉnh lại quy trình chuyển đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính để hòa giải, đối thoại tại Tòa án tại Điều 15 theo hướng: “Khi nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính, Tòa án vào sổ nhận đơn và xem xét chuyển ngay đơn và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho Chánh án Tòa án để phân công Thẩm phán xem xét điều kiện thụ lý vụ việc dân sự tại Tòa án. Trong trường hợp vụ việc đủ điều kiện thụ lý thì Thẩm phán được phân công sẽ tiến hành gửi thông báo cho các đương sự về việc đủ điều kiện thụ lý và xác nhận về việc đồng ý hoặc không đồng ý thủ tục hòa giải, đối thoại. Trong trường hợp các đương sự đồng ý hòa giải, đối thoại thì Chánh án sẽ phân công cho Hòa giải viên, Đối thoại viên sẽ tiến hành các bước thủ tục để tiến hành hòa giải, đối thoại”.
Tác giả cho rằng, nếu quy định như trên sẽ tránh được sự chồng chéo, lặp lại thủ tục giữa Luật HGĐTTTA với khởi kiện và thụ lý vụ việc dân sự tại BLTTDS và khiếu kiện hành chính được quy định tại Luật TTHC. Đồng thời, bảo đảm được sự thống nhất giữa khoản 1 Điều 1, điểm a khoản 1 Điều 8 và khoản 2, 3, 4 Điều 15 với nhau. Bên cạnh đó, hoạt động xem xét điều kiện thụ lý theo thủ tục sơ thẩm sẽ không còn được lặp lại nếu như vụ việc đó hòa giải, đối thoại không thành, không được hòa giải, đối thoại hoặc không hòa giải, đối thoại được và được tiến hành giải quyết theo thủ tục tố tụng.
2.4. Tác giả cho rằng, cần tham khảo quy định tại khoản 1 Điều 212 BLTTDS 2015 để quy định hình thức xử lý kết quả hòa giải, đối thoại thành theo hướng: Sau khi có kết quả hòa giải, đối thoại thành, Hòa giải viên, Đối thoại viên sẽ lập biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại thành sau đó các bên tham gia hòa giải, đối thoại ký tên vào biên bản; HGV, ĐTV ký xác nhận vào biên bản hòa giải, đối thoại thành. Trong thời hạn 7 ngày [6] kể từ ngày lập biên bản hòa giải, đối thoại thành các bên tham gia hòa giải, đối thoại không thay đổi ý kiến thì biên bản hòa giải, đối thoại thành thì Thẩm phán phụ trách hòa giải, đối thoại sẽ xem xét và ra quyết định “Công nhận kết quả hòa giải thành” đối với vụ việc dân sự hoặc “công nhận kết quả đối thoại thành” đối với khiếu kiện hành chính. Quy định theo hướng trên nhằm bảo đảm quyền lợi của các bên tham gia hòa giải, đối thoại, bảo đảm giải quyết triệt để, hiệu quả các tranh vụ việc dân sự, các khiếu kiện hành chính. Bởi vì quyết định có hiệu lực thi hành ngay (các bên không được kháng cáo, Viện kiểm sát không được kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm) nên cần phải có thời gian cho các bên tham gia hòa giải, đối thoại cân nhắc, suy nghĩ những nội dung mà mình đã thỏa thuận.
Như vậy, việc điều chỉnh Dự thảo theo một số quan điểm trên sẽ góp phần khẳng định vị trí độc lập của hoạt động hòa giải, đối thoại so với hoạt động tố tụng của Tòa án, bảo đảm giá trị, ý nghĩa hoạt động, hòa giải, đối thoại đồng thời góp phần giảm tải phát sinh các vụ việc tại Tòa án; thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính có sự kế thừa thành quả của nhau nhằm tinh gọn hơn các hoạt động tố tụng tại Tòa án; góp phần hoàn thiện và hướng tới ban hành Luật HGĐTTTA.
ThS. LÊ THỊ THÌN (Giảng viên Khoa Luật Dân sự – Trường Đại học Luật, Đại học Huế)
Nguồn: Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử (http://tapchitoaan.vn).
1.Xem thêm Điều 10 BLTTDS 2015
2. Xem thêm Điều 20 Luật TTHC 2015
3.Xem thêm Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
4.Xem thêm Điều 212 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
5.Xem thêm Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
6.Xem thêm Điều 123 Luật tố tụng hành chính năm 2015
Để lại một phản hồi Hủy