Dự thảo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án

Chuyên mụcThảo luận pháp luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án
(Ảnh minh họa - Nguồn: tapchitoaan.vn)

Tòa án nhân dân tối cao đã xây dựng Dự thảo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án để xin ý kiến đóng góp của các nhà nghiên cứu, các chuyên gia, của Luật gia, Luật sư, Thẩm phán… trong cả nước. Tapchitoaan.vn xin giới thiệu nội dung Dự thảo để quy vị độc giả tiện sử dụng và đóng góp ý kiến.

LUẬT HÒA GIẢI, ĐỐI THOẠI TẠI TÒA ÁN

Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

Quốc hội ban hành Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.

Chương I

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

Luật này quy định những nguyên tắc cơ bản về hòa giải, đối thoại tại Tòa án; phạm vi hòa giải, đối thoại, chính sách của Nhà nước, tổ chức, hoạt động của Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án; quyền, nghĩa vụ của Hòa giải viên, Đối thoại viên; trình tự, thủ tục, xử lý kết quả hòa giải, đối thoại; xử lý vi phạm đối với Hòa giải viên, Đối thoại viên và các bên tham gia hòa giải, đối thoại.

Phạm vi hòa giải, đối thoại theo quy định của Luật này được thực hiện đối với các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính ; yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính hoặc các mâu thuẫn, tranh chấp dân sự, hành chính do một hoặc các bên yêu cầu Tòa án hòa giải, đối thoại.

Hoạt động hòa giải, đối thoại theo pháp luật tố tụng dân sự, pháp luật tố tụng hành chính không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này.

Điều 2. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

Hoà giải tại Tòa án là hoạt động do Hoà giải viên thực hiện nhằm hỗ trợ các bên thoả thuận, thống nhất việc giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp dân sự theo quy định của Luật này khi có yêu cầu hoặc trước khi Tòa án thụ lý vụ việc theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Đối thoại tại Tòa án là hoạt động do Đối thoại viên thực hiện nhằm hỗ trợ các bên thống nhất việc giải quyết khiếu kiện hành chính theo quy định của Luật này khi có yêu cầu hoặc trước khi Tòa án thụ lý vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính.

Hòa giải viên, Đối thoại viên là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện, được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định bổ nhiệm để tiến hành hòa giải vụ việc dân sự, đối thoại khiếu kiện hành chính theo quy định của Luật này. Hòa giải viên, Đối thoại viên không thuộc biên chế của Tòa án.

Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án là tổ chức được thành lập, đặt tại Tòa án để tổ chức, điều phối hoạt động hòa giải, đối thoại và hỗ trợ Hòa giải viên, Đối thoại viên trong quá trình hòa giải, đối thoại theo quy định của Luật này.

Hòa giải thành là sự thỏa thuận, thống nhất giữa các bên về việc giải quyết một phần hoặc toàn bộ mâu thuẫn, tranh chấp dân sự[1].

Đối thoại thành là sự thống nhất giữa các bên về việc giải quyết một phần hoặc toàn bộ khiếu kiện hành chính.

Điều 3. Nguyên tắc áp dụng luật

Việc hòa giải, đối thoại tại Tòa án được thực hiện theo quy định của Luật này.

Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật này và luật khác về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của Luật này.

Điều 4. Nguyên tắc hòa giải, đối thoại

Việc hòa giải, đối thoại bảo đảm các nguyên tắc chung sau đây:

a) Nội dung thoả thuận hoà giải, đối thoại không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ, không xâm phạm quyền của bên thứ ba;

b) Các thông tin liên quan đến vụ việc hòa giải, đối thoại phải được giữ bí mật theo quy định tại Điều 5 Luật này;

c) Phương thức hòa giải, đối thoại được tiến hành linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế, đặc điểm của mỗi loại vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính.

Việc hòa giải phải bảo đảm các bên tham gia hòa giải hoàn toàn tự nguyện và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, dựa trên sự nhượng bộ lẫn nhau.

Việc đối thoại phải bảo đảm dân chủ, tôn trọng ý kiến của các bên; không được ép buộc các bên thực hiện việc giải quyết khiếu kiện hành chính trái với ý chí của họ.

Điều 5. Bảo mật thông tin

Không được sử dụng lời khai của một bên hoặc những người khác tham gia hòa giải, đối thoại làm chứng cứ trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính hoặc các thủ tục tố tụng khác, trừ những trường hợp sau đây:

a) Các bên tham gia hòa giải, đối thoại thống nhất bằng văn bản về việc không yêu cầu giữ bí mật trong quá trình hòa giải, đối thoại;

b) Những thông tin liên quan đến tội phạm, vi phạm pháp luật nghiêm trọng khác.

Bất cứ thông tin nào được trao đổi giữa một bên với Hòa giải viên, Đối thoại viên trong phiên họp riêng là bí mật và không được tiết lộ tới bất kỳ bên nào khác tham gia hòa giải, đối thoại, trừ khi có sự đồng ý trước của bên đã cung cấp thông tin.

Không được ghi âm, ghi hình, ghi biên bản chính thức bất cứ giai đoạn nào của thủ tục hòa giải, đối thoại, trừ biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại theo quy định tại Điều 33 của Luật này và ghi chép của Hòa giải viên, Đối thoại viên phục vụ cho việc tiến hành hòa giải, đối thoại.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 3 Điều này thì bị xử lý theo quy định tại Chương V của Luật này.

Điều 6. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hòa giải, đối thoại

Các bên tham gia hoà giải, đối thoại có quyền sau đây:

a) Đồng ý hoặc từ chối tham gia hòa giải, đối thoại; yêu cầu tạm dừng hoặc chấm dứt hòa giải, đối thoại;

b) Yêu cầu Hòa giải viên, Đối thoại viên giữ bí mật hoặc công khai những thông tin cung cấp;

c) Bày tỏ ý chí và quyết định về nội dung hòa giải, đối thoại;

d) Yêu cầu Tòa án công nhận hòa giải thành, đối thoại thành.

Các bên tham gia hòa giải, đối thoại có nghĩa vụ sau đây:

a) Tuân thủ các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật;

b) Tham gia hòa giải, đối thoại với tinh thần thiện chí, hợp tác với nhau và với Hòa giải viên, Đối thoại viên để thúc đẩy quá trình hòa giải, đối thoại đạt được kết quả tích cực; trình bày chính xác các tình tiết của vụ việc và cung cấp đầy đủ thông tin, tài liệu liên quan đến vụ việc theo yêu cầu của Hòa giải viên, Đối thoại viên;

c) Có mặt hoặc ủy quyền cho người khác tham gia phiên hòa giải, đối thoại theo giấy báo;

d) Tôn trọng Hòa giải viên, Đối thoại viên và các bên có liên quan;

đ) Chấp hành quy chế hòa giải, đối thoại tại Tòa án;

e) Không sử dụng các thiết bị có chức năng ghi âm, ghi hình gây ảnh hưởng đến việc giữ bí mật thông tin hòa giải, đối thoại.

Điều 7. Chính sách của Nhà nước về hòa giải, đối thoại tại Tòa án

Khuyến khích các bên giải quyết tranh chấp bằng hình thức hòa giải, đối thoại tại Tòa án.

Nhà nước không thu tiền lệ phí hòa giải, đối thoại tại Tòa án.

Khuyến khích những người đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định tại Luật này tham gia làm Hòa giải viên, Đối thoại viên.

4. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân tạo điều kiện, hỗ trợ cho hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án.

Điều 8. Kinh phí cho công tác hòa giải, đối thoại tại Tòa án

Nhà nước bảo đảm kinh phí cho công tác hòa giải, đối thoại tại Tòa án.

Kinh phí hàng năm cho công tác hòa giải, đối thoại tại Tòa án do Chính phủ trình Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trên cơ sở số lượng vụ việc được hòa giải thành, đối thoại thành.

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết về mức chi và việc quản lý, sử dụng kinh phí cho công tác hòa giải, đối thoại tại Tòa án.

Chương II

TRUNG TÂM HÒA GIẢI, ĐỐI THOẠI TẠI TÒA ÁN VÀ HÒA GIẢI VIÊN, ĐỐI THOẠI VIÊN

Mục 1

TRUNG TÂM HÒA GIẢI, ĐỐI THOẠI TẠI TÒA ÁN

 Điều 9. Địa vị pháp lý của Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án

Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định thành lập theo quy định tại Điều 13 của Luật này.

Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án chịu sự quản lý, kiểm tra, giám sát trực tiếp của Tòa án nơi đặt Trung tâm.

Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án hoạt động không vì mục đích lợi nhuận.

Điều 10. Chức năng của Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án

Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án có những chức năng sau đây:

Tổ chức, điều phối hoạt động hòa giải vụ việc dân sự, đối thoại khiếu kiện hành chính;

Quản lý Hòa giải viên, Đối thoại viên.

Điều 11. Nhiệm vụ, quyền hạn của Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án

Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

Tổ chức thực hiện hòa giải vụ việc dân sự, đối thoại khiếu kiện hành chính theo quy định của Luật này;

Lưu trữ hồ sơ, kết quả hòa giải, đối thoại;

Báo cáo về hoạt động của Trung tâm Hòa giải, đối thoại theo quy định của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;

Tổ chức cho Hòa giải viên, Đối thoại viên tham gia các chương trình đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của Tòa án;

Đề xuất danh sách khen thưởng, kỉ luật đối với Hòa giải viên, Đối thoại viên.

Điều 12. Cơ cấu tổ chức của Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án

Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án có các chức danh Giám đốc, Phó Giám đốc, Hòa giải viên, Đối thoại viên.

Giám đốc Trung tâm là người đứng đầu Trung tâm do:

Phương án 1: Chánh án Tòa án nơi đặt Trung tâm phân công Thẩm phán theo chế độ luân phiên.

Phương án 2: Các Hòa giải viên, Đối thoại viên bầu trong số các Hòa giải viên, Đối thoại viên của Trung tâm.

Giám đốc Trung tâm chịu trách nhiệm trước Chánh án Tòa án nơi đặt Trung tâm về việc quản lý Trung tâm về nhiệm vụ, quyền hạn của Trung tâm.

Phó Giám đốc Trung tâm là người giúp việc của Giám đốc Trung tâm; thực hiện công việc theo sự phân công và chịu trách nhiệm trước Giám đốc Trung tâm về nhiệm vụ được giao.

Số lượng Hòa giải viên, Đối thoại viên của Trung tâm do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định.

Điều 13. Điều kiện, thủ tục thành lập Trung tâm hoà giải, đối thoại tại Tòa án

Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh được thành lập trên cơ sở số lượng vụ việc hòa giải, đối thoại và số lượng Hòa giải viên, Đối thoại viên.

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này và yêu cầu thực tế của từng địa phương quyết định việc thành lập Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.

Đối với Tòa án nhân dân nơi chưa thành lập Trung tâm hoà giải, đối thoại tại Tòa án thì phải có danh sách Hoà giải viên, Đối thoại viên thực hiện nhiệm vụ hòa giải, đối thoại.

Chánh án Tòa án nhân dân nơi dự kiến thành lập Trung tâm lập Đề án đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định.

Điều 14. Tên và công bố thành lập Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án

Tên của Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án được đặt bằng tiếng Việt theo tên của Tòa án nhân dân nơi đặt Trung tâm.

Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có quyết định thành lập, Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án phải đăng Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tối cao, Trang thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về những nội dung chủ yếu sau đây:

a) Tên, địa chỉ của Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án;

b) Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án;

c) Thời điểm bắt đầu hoạt động của Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án;

d) Danh sách Hòa giải viên, Đối thoại viên của Trung tâm.

Điều 15. Giải thể Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án

Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án không đáp ứng đủ điều kiện hoạt động theo quy định của Luật này thì Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, quyết định giải thể.

Chánh án Tòa án nhân dân nơi đặt Trung tâm có trách nhiệm báo cáo và đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, giải thể các Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án mình.

 Mục 2

HÒA GIẢI VIÊN, ĐỐI THOẠI VIÊN

 Điều 16. Tiêu chuẩn Hòa giải viên, Đối thoại viên

Tiêu chuẩn chung của Hòa giải viên, Đối thoại viên gồm:

a) Là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có uy tín trong cộng đồng dân cư, trung thực, khách quan;

b) Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao;

c) Có kinh nghiệm và khả năng hòa giải, đối thoại;

d) Tự nguyện thực hiện nhiệm vụ hòa giải, đối thoại.

Những người dưới đây nếu có đủ tiêu chuẩn tại khoản 1 Điều này thì có thể được bổ nhiệm Hòa giải viên, Đối thoại viên:

a) Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên và những người giữ chức danh tư pháp khác đã nghỉ hưu;

b) Cán bộ trung cấp, cao cấp nghỉ hưu;

c) Chuyên gia, nhà chuyên môn khác có ít nhất 10 năm kinh nghiệm trong các lĩnh vực công tác;

d) Những người có uy tín cao trong xã hội.

Điều 17Đề nghị bổ nhiệm Hòa giải viên, Đối thoại viên

Người có đủ tiêu chuẩn theo quy định tại Điều 16 của Luật này muốn trở thành Hòa giải viên, Đối thoại viên nộp hồ sơ đề nghị bổ nhiệm Hòa giải viên, Đối thoại viên tại Tòa án nhân dân nơi họ có nguyện vọng làm việc.

Hồ sơ đề nghị bổ nhiệm Hòa giải viên, Đối thoại viên bao gồm:

a) Đơn đề nghị bổ nhiệm Hòa giải viên, Đối thoại viên;

b) Sơ yếu lý lịch của người đề nghị bổ nhiệm Hòa giải viên, Đối thoại viên có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền;

c) Giấy chứng nhận sức khỏe;

d) Bản sao có chứng thực giấy tờ chứng minh đủ các điều kiện theo quy định tại khoản 2 Điều 16 của Luật này.

Sau khi nhận hồ sơ hợp lệ, căn cứ nhu cầu bổ nhiệm Hòa giải viên, Đối thoại viên, Chánh án Tòa án lựa chọn người có đủ điều kiện, đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, quyết định.

Điều 18. Bổ nhiệm Hòa giải viên, Đối thoại viên

Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị bổ nhiệm Hòa giải viên, Đối thoại viên của Chánh án Tòa án nơi đề nghị bổ nhiệm thì Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, quyết định bổ nhiệm Hòa giải viên, Đối thoại viên.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định bổ nhiệm Hòa giải viên, Đối thoại viên thì danh sách Hòa giải viên, Đối thoại viên phải được công bố trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tối cao, Trang thông tin điện tử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và niêm yết tại trụ sở Tòa án nơi Hòa giải viên, Đối thoại viên làm việc.

Điều 19. Miễn nhiệm Hòa Giải viên, Đối thoại viên

Việc miễn nhiệm Hòa giải viên, Đối thoại viên được thực hiện khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Theo nguyện vọng của Hòa giải viên, Đối thoại viên;

b) Không còn đáp ứng một trong các tiêu chuẩn quy định tại Điều 16 của Luật này;

c) Vi phạm những quy định tại khoản 2 Điều 20 của Luật này;

d) Thuộc 10% số Hòa giải viên, Đối thoại viên có số lượng vụ việc hòa giải thành, đối thoại thành thấp nhất hàng năm.

Trường hợp có căn cứ tại khoản 1 Điều này, Chánh án Tòa án nơi Hòa giải viên, Đối thoại viên làm việc báo cáo Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, quyết định miễn nhiệm và xóa tên khỏi danh sách Hòa giải viên, Đối thoại viên.

Điều 20. Quyền, nghĩa vụ của Hòa giải viên, Đối thoại viên

Hòa giải viên, Đối thoại viên có quyền sau đây:

a) Tiến hành hòa giải vụ việc dân sự, đối thoại khiếu kiện hành chính theo quy định của Luật này;

b)

Phương án 1: Yêu cầu các bên cung cấp tài liệu, thông tin liên quan đến vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính;

Phương án 2: Yêu cầu các bên tranh chấp, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu, thông tin liên quan đến vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính trong trường hợp cần thiết;[2]

c) Được tham gia tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về hoà giải, đối thoại do Tòa án nhân dân tối cao tổ chức;

d) Được hưởng thù lao theo quy định của pháp luật khi thực hiện hoạt động hòa giải, đối thoại.

Hòa giải viên, Đối thoại viên có nghĩa vụ sau đây:

a) Từ chối tiến hành hòa giải, đối thoại nếu bản thân có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ việc hòa giải, đối thoại hoặc vì lý do khác dẫn đến không thể bảo đảm công bằng, vô tư, khách quan trong quá trình hòa giải, đối thoại;

b) Từ chối làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác đối với vụ việc mà mình đã tiến hành hòa giải, đối thoại;

c) Tiến hành hòa giải, đối thoại theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật này, có tính đến tình tiết vụ việc, nguyện vọng của các bên và yêu cầu giải quyết vụ việc nhanh chóng;

d) Tuân thủ pháp luật, độc lập, vô tư, khách quan, trung thực;

đ) Đảm bảo bí mật thông tin về vụ việc mà mình tham gia hòa giải, đối thoại theo quy định của Luật này;

e) Không được ép buộc các bên hòa giải, đối thoại trái với ý chí của họ;

g) Không được nhận hoặc đòi hỏi thêm bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác từ các bên tham gia hòa giải, đối thoại ngoài thù lao mà Hòa giải viên, Đối thoại viên đã được Nhà nước chi trả.

Điều 21. Thù lao của Hòa giải viên, Đối thoại viên

Thù lao của Hòa giải viên, Đối thoại viên được chi trả từ ngân sách nhà nước.

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định cụ thể mức thù lao, việc chi trả thù lao cho Hòa giải viên, Đối thoại viên.

Điều 22. Khen thưởng, kỷ luật Hòa giải viên, Đối thoại viên

Hàng năm, căn cứ vào danh sách đề xuất khen thưởng của Chánh án Tòa án nơi Hoà giải viên, Đối thoại viên thực hiện hoà giải, đối thoại, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có quyết định khen thưởng cho tập thể hoặc cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác hoà giải, đối thoại.

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết về việc khen thưởng, kỷ luật Hòa giải viên, Đối thoại viên.

Chương III 

TRÌNH TỰ, THỦ TỤC HÒA GIẢI, ĐỐI THOẠI

Điều 23. Yêu cầu hòa giải, đối thoại tại Tòa án

Yêu cầu hòa giải, đối thoại tại Tòa án được thực hiện theo các phương thức sau đây:

a) Đề nghị trực tiếp tại Tòa án;

b) Nộp đơn yêu cầu trực tiếp tại Tòa án;

c) Gửi đơn yêu cầu đến Tòa án theo đường dịch vụ bưu chính;

d) Gửi đơn yêu cầu trực tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).

Đơn yêu cầu phải có những nội dung chính sau đây:

a) Ngày, tháng, năm làm đơn yêu cầu;

b) Tên Tòa án nhận đơn yêu cầu;

c) Tên, nơi cư trú, làm việc của người yêu cầu là cá nhân hoặc trụ sở của người yêu cầu là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có). Trường hợp các bên thỏa thuận địa chỉ để Tòa án liên hệ thì ghi rõ địa chỉ đó;

d) Tên, nơi cư trú, làm việc của các bên có liên quan là cá nhân hoặc trụ sở các bên có liên quan là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có);

đ) Những vấn đề cụ thể yêu cầu hòa giải, đối thoại;

e) Tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn yêu cầu (nếu có).

Khi nộp đơn, người yêu cầu phải cam đoan về việc không đồng thời yêu cầu, khởi kiện tại bất kỳ Tòa án nào và chỉ lựa chọn Trung tâm này để yêu cầu hòa giải, đối thoại.

Điều 24. Việc chuyển đơn khởi kiện, đơn yêu cầu cho Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án

Khi nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn theo quy định tại Điều 190 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 119 Luật Tố tụng hành chính, Tòa án chuyển đơn khởi kiện, đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án;

b) Người khởi kiện, người yêu cầu không phản đối việc hoà giải, đối thoại trước khi Tòa án xem xét thụ lý theo trình tự tố tụng;

c) Vụ việc không thuộc trường hợp không được hòa giải, đối thoại theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính.

Thời gian hòa giải, đối thoại đối với trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án.

Điều 25. Phân công Hòa giải viên, Đối thoại viên

Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu hòa giải, đối thoại hoặc đơn khởi kiện, đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Giám đốc Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án hoặc Chánh án Tòa án nhân dân nơi chưa thành lập Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án phải phân công một (hoặc một số) Hòa giải viên, Đối thoại viên theo yêu cầu của các bên tham gia hòa giải, đối thoại hoặc phân công Hòa giải viên, Đối thoại viên xem xét, tiến hành hòa giải, đối thoại phù hợp với chuyên môn, kinh nghiệm của Hòa giải viên, Đối thoại viên.

Trong quá trình hòa giải, đối thoại, nếu Hòa giải viên, Đối thoại viên được phân công không thể tiếp tục tiến hành được nhiệm vụ hoặc bị thay đổi theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 20 và Điều 26 của Luật này thì Giám đốc Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án hoặc Chánh án Tòa án nhân dân nơi chưa thành lập Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án phân công Hòa giải viên, Đối thoại viên khác tiếp tục thực hiện nhiệm vụ.

Điều 26. Thay đổi Hòa giải viên, Đối thoại viên

Hòa giải viên, Đối thoại viên bị thay đổi khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Là người có lợi ích liên quan đến vụ việc hòa giải, đối thoại;

b) Có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ;

c) Các bên tham gia hòa giải, đối thoại thỏa thuận lựa chọn Hòa giải viên, Đối thoại viên khác hoặc từ chối Hòa giải viên, Đối thoại viên đã được phân công;

d) Bị miễn nhiệm theo quy định tại Điều 19 của Luật này.

Việc thay đổi Hòa giải viên, Đối thoại viên do Giám đốc Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án hoặc Chánh án Tòa án nhân dân nơi chưa thành lập Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án quyết định.

Điều 27. Thời hạn hòa giải, đối thoại

Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày được phân công, Hòa giải viên, Đối thoại viên phải tiến hành hòa giải, đối thoại. Trường hợp vụ việc phức tạp mà các bên tham gia hòa giải, đối thoại cần bổ sung thêm tài liệu, chứng cứ hoặc theo yêu cầu chính đáng của họ thì thời hạn này có thể được kéo dài nhưng không quá 10 ngày.

Thời hạn hòa giải, đối thoại là 30 ngày; trường hợp cần thiết thì có thể gia hạn nhưng không quá 02 tháng.

Điều 28. Chuẩn bị hòa giải, đối thoại

Để chuẩn bị hòa giải, đối thoại, Hòa giải viên, Đối thoại viên thực hiện các công việc sau đây:

Tiếp nhận hồ sơ;

Vào sổ theo dõi vụ việc;

Xác định tư cách của những người liên quan trong vụ việc;

Yêu cầu các bên tham gia hòa giải, đối thoại bổ sung hồ sơ; cung cấp cho Hòa giải viên, Đối thoại viên và trao đổi với nhau những nội dung cần hòa giải, đối thoại, quan điểm, đề xuất về phương án giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp, khiếu kiện;

Nghiên cứu hồ sơ;

Xây dựng phương án hòa giải, đối thoại;

Tìm những người uy tín có khả năng tác động đến các bên tham gia hòa giải, đối thoại để hỗ trợ cho việc hòa giải, đối thoại;

Tìm hiểu phong tục, tập quán và hoàn cảnh của các bên tham gia hòa giải, đối thoại để hỗ trợ cho việc hòa giải, đối thoại;

Tham khảo ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức có chuyên môn về lĩnh vực có mâu thuẫn, tranh chấp, khiếu kiện;

Các nội dung khác cần thiết cho việc hòa giải, đối thoại.

Điều 29. Thông báo về phiên hòa giải, đối thoại

Chậm nhất 07 ngày trước khi tiến hành phiên hòa giải, đối thoại, Hòa giải viên, Đối thoại viên phải thông báo cho các bên và những người được mời tham gia phiên hòa giải, đối thoại về thời gian, địa điểm, nội dung tiến hành phiên hòa giải, đối thoại. Việc tiến hành hòa giải, đối thoại có thể được thực hiện ngoài trụ sở Tòa án trong trường hợp các bên đều đồng ý.

Tòa án nhân dân nơi tiến hành hòa giải, đối thoại hỗ trợ việc gửi giấy tờ, tài liệu cho các bên tham gia hòa giải, đối thoại và những người được mời tham gia hòa giải, đối thoại.

Điều 30. Thành phần tham gia phiên hòa giải, đối thoại

Thành phần tham gia phiên hòa giải gồm có:

a) Hòa giải viên;

b) Các bên yêu cầu hòa giải;

c) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (nếu có);

d) Người được mời tham gia hòa giải trong trường hợp cần thiết.

Thành phần tham gia phiên đối thoại gồm có:

a) Đối thoại viên;

b) Các bên yêu cầu đối thoại;

c) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (nếu có);

d) Người được mời tham gia đối thoại trong trường hợp cần thiết.

Các bên yêu cầu hòa giải, đối thoại quy định tại điểm b khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều này có thể trực tiếp hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia hòa giải, đối thoại và phải thông báo bằng văn bản về họ tên, địa chỉ liên lạc của những người này cho bên còn lại và cho Hòa giải viên, Đối thoại viên biết.

Người đại diện theo ủy quyền của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước, người đại diện theo ủy quyền của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó phải có đủ thẩm quyền để giải quyết khiếu kiện.

Điều 31. Hoãn phiên hòa giải, đối thoại

Hòa giải viên, Đối thoại viên hoãn phiên hòa giải, đối thoại khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

Một trong các bên tham gia hòa giải, đối thoại đã được thông báo lần thứ nhất về thời gian, địa điểm mà vắng mặt;

Theo yêu cầu của các bên tham gia hòa giải, đối thoại và không vi phạm thời hạn hòa giải, đối thoại quy định tại Điều 27 của Luật này;

Hòa giải viên, Đối thoại viên không thể tiến hành hòa giải, đối thoại vì lý do khách quan.

Điều 32. Trình tự hòa giải, đối thoại

Quá trình hòa giải, đối thoại có thể được tiến hành trong nhiều phiên, giải quyết lần lượt các yêu cầu hòa giải, đối thoại.

Các phiên hòa giải, đối thoại có thể được thực hiện bằng hình thức trực tiếp, trực tuyến hoặc các hình thức khác.

Các phiên hòa giải, đối thoại được thực hiện công khai hoặc không công khai theo thỏa thuận của các bên.

Trong quá trình hòa giải, đối thoại, Hòa giải viên, Đối thoại viên có thể gặp riêng từng bên, yêu cầu mỗi bên trình bày ý kiến của mình về các vấn đề đang mâu thuẫn, tranh chấp, khiếu kiện, đề xuất giải pháp hòa giải, đối thoại.

Các bên đề xuất, đàm phán, thống nhất về các phương án giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp, khiếu kiện. Hòa giải viên, Đối thoại viên phân tích, gợi ý, hỗ trợ các bên thống nhất các giải pháp hòa giải, đối thoại nhưng không được áp đặt.

Thủ tục hòa giải, đối thoại được thực hiện bằng tiếng Việt. Nếu có yêu cầu dịch thuật thì bên yêu cầu phải tự chịu trách nhiệm về việc dịch và độ chính xác của bản dịch. Một hoặc các bên có thể yêu cầu Hòa giải viên, Đối thoại viên bố trí phiên dịch cho mình và tự chịu chi phí phiên dịch.

Điều 33. Biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại

Tại phiên kết thúc hòa giải, đối thoại, Hòa giải viên, Đối thoại viên lập Biên bản hòa giải, Biên bản đối thoại với các nội dung sau:

a) Ngày, tháng, năm, địa điểm tiến hành hòa giải, đối thoại;

b) Thành phần tham gia phiên hòa giải, đối thoại;

c) Nội dung chính của vụ việc;

d) Kết quả hòa giải thành, kết quả đối thoại thành; những nội dung hòa giải không thành, đối thoại không thành;[3]

đ) Chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên và Hòa giải viên, Đối thoại viên.

Những người tham gia phiên hòa giải, đối thoại có quyền được xem Biên bản hòa giải, Biên bản đối thoại; yêu cầu sửa đổi, bổ sung và ký xác nhận hoặc điểm chỉ.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản hòa giải, biên bản đối thoại, Hòa giải viên, Đối thoại viên phải gửi ngay biên bản hòa giải, biên bản đối thoại cho các bên tham gia hòa giải, đối thoại, gửi cho Tòa án đã chuyển yêu cầu và lưu vào hồ sơ hòa giải, đối thoại.

Các bên tham gia hòa giải phải chịu trách nhiệm về nội dung thỏa thuận, thống nhất. Kết quả hòa giải thành có giá trị pháp lý đối với các bên tham gia hòa giải theo quy định của pháp luật dân sự.[4]

Điều 34. Kết thúc hòa giải, đối thoại

Việc hòa giải, đối thoại kết thúc khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

Hòa giải thành, đối thoại thành;

Hòa giải không thành, đối thoại không thành;

Một trong các bên yêu cầu hòa giải, đối thoại từ chối hoặc vắng mặt sau hai lần được thông báo về việc hòa giải, đối thoại;

Vụ việc không được hòa giải, đối thoại theo quy định của Luật.

CHƯƠNG IV

XỬ LÝ KẾT QUẢ HÒA GIẢI, ĐỐI THOẠI

Mục 1

XỬ LÝ KẾT QUẢ HÒA GIẢI

 Điều 35. Yêu cầu công nhận hòa giải thành[5]

Trường hợp hòa giải thành, một trong các bên có quyền yêu cầu Tòa án, nơi Hòa giải viên đã tiến hành hòa giải xem xét, công nhận hòa giải thành. Thời hạn yêu cầu là 06 tháng kể từ ngày lập biên bản hòa giải.

Người yêu cầu Tòa án công nhận hòa giải thành phải cung cấp cho Tòa án tài liệu làm cơ sở cho việc xem xét đơn yêu cầu[6]; chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình.

Điều 36. Quyết định công nhận hòa giải thành[7]

Tòa án ra quyết định công nhận hòa giải thành khi có đủ các điều kiện sau:

a) Có yêu cầu của một trong các bên;

b) Có biên bản ghi nhận hòa giải thành;

c) Các bên tham gia thỏa thuận hòa giải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự;

d) Các bên tham gia thỏa thuận hòa giải là người có quyền, nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận hòa giải. Trường hợp nội dung thỏa thuận hòa giải thành liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người thứ ba thì phải được người thứ ba đồng ý;

đ) Nội dung thỏa thuận hòa giải thành của các bên là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba.

Thời hạn ra quyết định công nhận hòa giải thành là 07 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu; trường hợp cần thiết có thể kéo dài nhưng không quá 15 ngày.

Quyết định công nhận hòa giải thành được gửi cho người tham gia hòa giải, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết định.

Quyết định công nhận hòa giải thành có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

Quyết định công nhận hòa giải thành có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thoả thuận đó là do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép hoặc vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội.

Trình tự, thủ tục kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.[8]

6. Quyết định công nhận hòa giải thành được thi hành theo pháp luật về thi hành án dân sự.

Điều 37. Quyết định không công nhận hòa giải thành[9]

1. Thẩm phán ra quyết định không công nhận hòa giải thành đối với trường hợp không có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 36 của Luật này.

Việc không công nhận hòa giải thành không ảnh hưởng đến nội dung và giá trị pháp lý đối với các bên tham gia hòa giải.

Quyết định không công nhận hòa giải thành được gửi cho người tham gia thỏa thuận hòa giải, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết định.

Quyết định không công nhận hòa giải thành có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.

Điều 38. Xử lý hòa giải không thành, không tiến hành hòa giải được

Trường hợp hòa giải không thành hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 34 của Luật này thì Hòa giải viên trả lại các tài liệu, chứng cứ có liên quan cho người yêu cầu hòa giải. Thời hạn trả lại đơn là 03 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải không thành.

Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải mà hòa giải không thành, Hòa giải viên trả lại các tài liệu, chứng cứ có liên quan cho người yêu cầu hòa giải đối với trường hợp người yêu cầu hòa giải không có đơn khởi kiện trước thời điểm yêu cầu hòa giải.

Tòa án nơi tiến hành hòa giải tiến hành thủ tục xem xét, thụ lý vụ việc theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự đối với trường hợp Tòa án chuyển đơn khởi kiện, đơn yêu cầu để hòa giải theo quy định tại Điều 24 và khoản 1 Điều 25 của Luật này.

Mục 2

XỬ LÝ KẾT QUẢ ĐỐI THOẠI[10]

 Điều 39. Điều kiện công nhận đối thoại thành[11]

Tòa án ra quyết định công nhận đối thoại thành khi có đủ các điều kiện sau:

Có yêu cầu của một trong các bên;

Có biên bản ghi nhận đối thoại thành;

Người ban hành quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính cam kết sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ quyết định hoặc chấm dứt hành vi hành chính và người khởi kiện cam kết rút đơn khởi kiện đối với trường hợp Tòa án tiến hành đối thoại theo đơn khởi kiện, các cam kết này phải được thể hiện trong biên bản đối thoại; hoặc trường hợp qua đối thoại mà người khởi kiện tự nguyện rút đơn khởi kiện.

Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập biên bản đối thoại, người ban hành quyết định hành chính, hành vi hành chính phải gửi cho Tòa án quyết định hành chính mới theo nội dung cam kết đã được ghi nhận trong biên bản đối thoại hoặc thông báo về việc chấm dứt hành vi hành chính và người khởi kiện phải gửi cho Tòa án văn bản rút đơn khởi kiện.

Điều 40. Quyết định công nhận đối thoại thành

Khi nhận được quyết định hành chính mới hoặc văn bản rút đơn khởi kiện quy định tại khoản 4 Điều 39 Luật này, Tòa án phải thông báo cho những người tham gia đối thoại khác biết.

Thời hạn ra quyết định công nhận đối thoại thành là 07 ngày kể từ ngày Tòa án nhận được yêu cầu; trường hợp cần thiết có thể kéo dài nhưng không quá 15 ngày.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định công nhận đối thoại thành, Tòa án phải gửi quyết định đó cho các bên tham gia đối thoại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và Viện kiểm sát cùng cấp.

4. Quyết định công nhận đối thoại thành có hiệu lực thi hành ngay và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

5. Quyết định công nhận đối thoại thành có thể bị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm trong trường hợp có căn cứ cho rằng nội dung các bên đã thống nhất và cam kết là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.

Trình tự, thủ tục kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được thực hiện theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.[12]

6. Quyết định công nhận đối thoại thành được thi hành theo pháp luật về thi hành án hành chính.

Điều 41. Xử lý đối thoại không thành

Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được biên bản đối thoại mà đối thoại không thành, Tòa án nơi tiến hành đối thoại trả lại các tài liệu, chứng cứ có liên quan cho người yêu cầu đối thoại đối với trường hợp người yêu cầu đối thoại chưa nộp đơn khởi kiện trước thời điểm yêu cầu đối thoại.

Tòa án nơi tiến hành đối thoại tiến hành thủ tục xem xét, thụ lý vụ án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính đối với trường hợp Tòa án chuyển đơn khởi kiện để đối thoại theo quy định tại Điều 24 và khoản 1 Điều 25 của Luật này.

Chương V

XỬ LÝ VI PHẠM

Điều 42. Xử lý vi phạm đối với Hoà giải viên, Đối thoại viên

Hoà giải viên, Đối thoại viên vi phạm quy định của Luật này phải chịu một trong các hình thức kỷ luật sau:

a) Khiển trách;

b) Xóa tên khỏi danh sách Hòa giải viên, Đối thoại viên.

Trường hợp vi phạm nghiêm trọng thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành quy định tại khoản 1 Điều này.

Điều 43. Xử lý vi phạm đối với các bên tham gia hoà giải, đối thoại

Người nào vi phạm về bảo mật thông tin quy định tại Điều 5 của Luật này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý theo quy định của pháp luật; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Chương VI 

ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

Điều 44. Hiệu lực thi hành

Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày …. tháng … năm ……..

Điều 45. Trách nhiệm thi hành

Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các điều, khoản được giao trong Luật, hướng dẫn các nội dung cần thiết khác theo thẩm quyền để thi hành Luật này.

Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm quản lý nhà nước về hòa giải, đối thoại tại Tòa án.

 


[1] Tham khảo khoản 4 Điều 3 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày 24-02-2017 của Chính phủ về hòa giải thương mại.

[2] Ý kiến không đồng tình với Phương án 2 cho rằng không nên quy định Hòa giải viên, Đối thoại viên có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu, thông tin liên quan đến vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính vì ảnh hưởng đến vị trí trung lập của Hòa giải viên, Đối thoại viên. Theo thủ tục này, Hòa giải viên, Đối thoại viên không tham gia vào quá trình chứng minh ai đúng, ai sai mà chỉ căn cứ vào yêu cầu, tài liệu do các bên cung cấp và quy định của pháp luật để hỗ trợ các bên hòa giải, thương lượng, hóa giải mâu thuẫn, tranh chấp. Bên cạnh đó, việc quy định theo Phương án 2 nêu trên còn có thể bị lạm dụng, ảnh hưởng tiêu cực đến việc hòa giải, đối thoại của Hòa giải viên, Đối thoại viên.

[3] Tham khảo Điều 15 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày 24-02-2017 của Chính phủ về Hòa giải thương mại.

[4] Tham khảo khoản 1 Điều 15 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày 24-02-2017 của Chính phủ về Hòa giải thương mại.

[5] Tham khảo Điều 418 BLTTDS.

[6] Tham khảo điểm b khoản 3 Điều 419 BLTTDS.

[7] Tham khảo Điều 212, 417 và 419 BLTTDS.

[8] Theo quy định tại Điều 212 BLTTDS thì có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

[9] Tham khảo Điều 212, 417 và 419 BLTTDS.

[10] Được xây dựng trên tinh thần Điều 140 Luật Tố tụng hành chính, không đặt ra thời hiệu 6 tháng để các bên yêu cầu Tòa án công nhận kết quả đối thoại thành vì cơ chế đối thoại khiếu kiện hành chính mang tính chất đặc thù – cơ chế tự thi hành.

[11] Một số ý kiến đề nghị không quy định việc Tòa án công nhận đối thoại thành với các lý do:

Thứ nhất, trường hợp cơ quan hành chính, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính đã nhận thấy quyết định hành chính là trái pháp luật và đã ban hành quyết định hành chính mới để sửa đổi, bổ sung, thay thế quyết định hành chính trước đây thì quyết định này đương nhiên có hiệu lực thi hành (có thể thực hiện việc cưỡng chế hành chính) mà không cần Tòa án công nhận. Nếu trong quá trình thực hiện, người phải thực hiện quyết định hành chính cho rằng quyết định này vẫn trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của họ thì họ có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án.

Thứ hai, trường hợp người phải thực hiện quyết định hành chính, qua đối thoại nhận thức được quyết định hành chính là đúng pháp luật và cam kết là sẽ thực hiện thì quyết định hành chính tiếp tục có hiệu lực thi hành; Nếu người phải thực hiện quyết định hành chính không chấp hành quyết định hành chính thì có thể bị cưỡng chế hành chính theo quy định của pháp luật.

[12] Theo quy định tại Điều 212 BLTTDS thì có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, còn theo Chương XXXIII về công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án thì không có thủ tục giám đốc thẩm.

đánh giá bài viết

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền