Bình luận về việc xây dựng Luật Thuế tài sản thay cho Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp và Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp

Chuyên mụcLuật thuế, Thảo luận pháp luật Thuế tài sản

Tóm tắt: Việc ban hành Luật Thuế tài sản thay thế cho Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp và Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp hiện hành là phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội ở Việt Nam. Đồng thời, các quy định trong sắc thuế mới này cũng phù hợp với thông lệ quốc tế, thể hiện được những ưu điểm về quản lý và góp phần ổn định trật tự xã hội.

 

Các nội dung liên quan:

 

Abtract: The issuance of Law on Property Tax as substitution of the Law on Agricultural Land Use Tax and Law on Law on Non-Agricultural Land Use Tax is appropriate in line with the current socio-economic conditions of Vietnam. The provisions on new taxes are in line with the common international practices, presenting the advantages of taxation management and contributing to the stabilization of the social performance.

 

1. Quy định về đối tượng chịu thuế của Thuế Tài sản là đất phi nông nghiệp

Đối tượng chịu thuế của một sắc thuế là khái niệm được dùng để phản ánh phạm vi điều tiết và các đối tượng bị sắc thuế đó tác động đến làm phát sinh nghĩa vụ nộp thuế của người nộp thuế. Đối tượng chịu thuế bao gồm các loại hàng hóa, dịch vụ, tài sản, thu nhập hoặc những lợi ích vật chất khác[1]. Như vậy có thể thấy, trong hệ thống thuế của một quốc gia, thuế tài sản tồn tại bên cạnh thuế thu nhập và thuế tiêu dùng mới có thể bao quát hết các khả năng nộp thuế trong nền kinh tế[2]. Đồng thời, việc điều tiết thuế đối với tài sản cũng huy động được nguồn thu cho ngân sách nhà nước (NSNN); đảm bảo công bằng xã hội và thực hiện việc quản lý, kiểm soát, điều tiết đối với tài sản, đối với các hành vi sở hữu, sử dụng tài sản, khuyến khích sử dụng tài sản hợp lý, có hiệu quả[3].

Dự thảo Luật Thuế tài sản[4] quy định đối tượng chịu thuế tài sản bao gồm: (i) Đất phi nông nghiệp; (ii) Nhà ở hoặc bao gồm nhà ở; nhà và công trình thương mại, dịch vụ; (iii) Có thể điều tiết thêm đối với tàu bay, du thuyền, ô tô có giá trị từ 1,5 tỷ đồng trở lên[5].Đồng thời, Dự thảo cũng quy định đất nông nghiệp; đất phi nông nghiệp không sử dụng vào mục đích kinh doanh hoặc để ở là đối tượng không chịu thuế của sắc thuế này. Theo đó, thuế tài sản sẽ là sắc thuế mới thay thế thuế sử dụng đất phi nông nghiệp  (SDĐPNN) điều tiết đối với đất phi nông nghiệp là đất ở gồm đất ở tại nông thôn và đất ở tại đô thị; Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp gồm: đất khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất; đất thương mại, dịch vụ; đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp; đất sử dụng cho hoạt động khoáng sản; đất sản xuất vật liệu xây dựng, làm đồ gốm; Đất phi nông nghiệp thuộc đối tượng không chịu thuế nhưng sử dụng vào mục đích kinh doanh hoặc để ở.

Các quy định về đối tượng chịu thuế đối với đất phi nông nghiệp tại Dự thảo được kế thừa trên cơ sở quy định về đối tượng chịu thuế của Luật Thuế  SDĐPNN và đảm bảo phù hợp với quy định về phân loại đất của Luật Đất đai năm 2013. Theo đánh giá của Bộ Tài chính, các quy định về đối tượng chịu thuế và đối tượng không chịu thuế SDĐPNN hiện hành được Dự thảo kế thừa sẽ tạo được các thuận lợi nhất định cho người nộp thuế và cơ quan thu thuế trong quá trình thực hiện vì cơ sở dữ liệu về việc thu thuế đối với các loại đất này đã có. Việc thu thuế SDĐPNN trong thời gian qua có ý nghĩa đặc biệt trong việc thiết lập cơ sở dữ liệu về đất, tạo hành lang pháp lý để quản lý đất đai. Như vậy, bằng việc quy định đối tượng chịu thuế tài sản bao gồm cả đất phi nông nghiệp và liệt kê đất nông nghiệp vào diện không chịu thuế thì việc ban hành Luật Thuế tài sản có một số ưu điểm như sau:

(i) Xét về mặt kỹ thuật lập pháp: Trong điều kiện tồn tại hai văn bản Luật thuế khác nhau cùng điều tiết vào giá trị quyền sử dụng đất gồm Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp (SDĐNN) và Luật Thuế SDĐPNN, trong đó thuế sử dụng đất nông nghiệp hầu như đã được miễn hết[6] (theo quy định tại Nghị quyết 55/2010/QH12 và Nghị quyết 28/2016/QH13 của Quốc hội) thì việc ban hành Luật Thuế tài sản theo hướng kế thừa các quy định của Luật Thuế SDĐPNN và liệt kê đất nông nghiệp thuộc diện không chịu thuế sẽ đảm bảo được sự thống nhất, rõ ràng, hạn chế các quy định mang tính hình thức.

 (ii) Xét về nội hàm quy định: Việc quy định đất nông nghiệp thuộc đối tượng không chịu thuế tài sản thay vì miễn thuế SDĐNN như trước đây vẫn thể hiện được chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng hiện đại hóa, giảm bớt khó khăn cho người nông dân, khuyến khích đầu tư, thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển bền vững; và phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế. Đồng thời, đất nông nghiệp khi thuộc diện không chịu thuế sẽ đảm bảo thống nhất giữa lý luận/pháp luật và thực tiễn bởi thực tiễn từ lâu thông qua hình thức miễn thuế, Việt Nam đã không thu thuế này nữa.

2. Các quy định về căn cứ tính thuế tài sản đối với đất phi nông nghiệp

Căn cứ tính thuế là cách thức xác định số thuế phải nộp vào NSNN. Căn cứ tính thuế có ý nghĩa quan trọng nhằm xác định chính xác số tiền thuế phải nộp. Nếu căn cứ tính thuế được quy định một cách phù hợp với các điều kiện về kinh tế, xã hội, phù hợp với khả năng đóng góp của người nộp thuế sẽ góp phần đảm bảo công bằng và dung hòa lợi ích của các bên trong quan hệ thuế. Do đất nông nghiệp thuộc diện không chịu thuế nên toàn bộ quy định về căn cứ tính thuế của Luật Thuế SDĐNN sẽ được bãi bỏ. Theo đó, căn cứ tính thuế tài sản đối với đất phi nông nghiệp về cơ bản là kế thừa toàn bộ quy định tại Luật Thuế SDĐPNN hiện hành.

Trên cơ sở đó, chúng tôi sẽ so sánh và đánh giá các quy định của Dự thảo Luật Thuế tài sản với các quy định của Luật thuế SDĐPNN hiện hành dựa trên hai yếu tố của căn cứ tính thuế gồm: giá tính thuế và thuế suất.

Thứ nhất, quy định về giá tính thuế tài sản đối với đất phi nông nghiệp

Luật Thuế SDĐPNN và Dự thảo Luật Thuế tài sản đều có cách thức xác định giá tính thuế đối với đất phi nông nghiệp như nhau, cụ thể: Giá tính thuế đất phi nông nghiệp được xác định bằng diện tích đất tính thuế nhân với giá của 1m2 đất[7]. Tuy nhiên, quy định về các yếu tố cấu thành giá tính thuế lại có điểm khác biệt đáng kể giữa Luật Thuế SDĐPNN với Dự thảo Luật Thuế tài sản:

(i) Quy định về cách thức xác định diện tích tính thuế:

Theo quy định tại Điều 6 Luật Thuế SDĐPNN, diện tích đất tính thuế là diện tích đất thực tế sử dụng. Đối với đất ở nhà nhiều tầng nhiều hộ ở, nhà chung cư bao gồm cả trường hợp vừa để ở, vừa để kinh doanh thì diện tích đất tính thuế được xác định bằng hệ số phân bổ nhân với diện tích nhà của từng tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng. Theo cách xác định hiện nay, “hệ số phân bổ được xác định bằng diện tích đất xây dựng nhà nhiều tầng nhiều hộ ở, nhà chung cư chia cho tổng diện tích nhà của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng”[8]. Theo quan điểm của Bộ Tài chính, với quy định hệ số xác định diện tích đất để tính thuế đối với nhà chung cư như quy định của Luật thuế SDĐPNN (tổng hệ số bằng 1) thì nhà chung cư thấp tầng, nhà ở tái định cư, nhà ở của người có thu nhập thấp, trung bình sẽ phải nộp thuế cao hơn nhà ở cao tầng, như vậy là chưa đảm bảo công bằng và chưa phù hợp với thực tế.

Hơn nữa, trên thực tế, các nhà chung cư thấp tầng đều là các nhà chung cư cũ, nhà ở xã hội, nhà ở tái định cư (chủ yếu phục vụ cho người có thu nhập thấp và trung bình trong xã hội), còn các chung cư cao tầng đều là các chung cư cao cấp, được hưởng lợi nhiều từ việc sử dụng kết cấu hạ tầng giao thông, phúc lợi xã hội, đặc biệt là những căn hộ shophouse ở tầng 1 hoặc thông tầng thường giá bán rất cao. Do đó, để đảm bảo công bằng, đúng bản chất của thuế tài sản là điều tiết cao đối với những người có tài sản giá trị lớn và người được hưởng lợi nhiều từ việc sử dụng kết cấu hạ tầng giao thông, phúc lợi xã hội phải có nghĩa vụ cao hơn thì Dự thảo xác định hệ số xác định diện tích đất tính thuế đối với đất xây dựng nhà chung cư có sự phân biệt giữa diện tích để ở và diện tích để kinh doanh.

Theo quy định của Dự thảo Luật Thuế tài sản, diện tích đất tính thuế là diện tích đất ghi trên Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất hoặc trên Quyết định giao đất, Quyết định cho thuê đất hoặc Hợp đồng giao đất, Hợp đồng cho thuê đất. Trường hợp chưa có Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất, Quyết định giao đất, Quyết định cho thuê đất, Hợp đồng giao đất, Hợp đồng cho thuê đất thì diện tích đất tính thuế là diện tích thực tế sử dụng.

Đối với đất xây dựng nhà chung cư (gồm nhà chung cư được xây dựng với mục đích để ở và nhà chung cư được xây dựng có mục đích sử dụng hỗn hợp để ở và kinh doanh) thì diện tích đất tính thuế được xác định bằng diện tích nhà của từng tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng nhân với hệ số xác định diện tích đất tính thuế theo quy định của Chính phủ. Hệ số xác định diện tích đất tính thuế được xác định căn cứ vào mục đích sử dụng của người nộp thuế theo hướng diện tích đất để kinh doanh sẽ có hệ số cao hơn so với diện tích đất để ở[9]. Theo quan điểm của Bộ Tài chính (thể hiện trong Tờ trình ban hành Dự thảo Luật Thuế Tài sản), quy định về cách xác định diện tích đất tính thuế của nhà chung cư căn cứ vào hệ số theo mục đích sử dụng như quy định của Dự thảo khắc phục được các hạn chế của Luật Thuế SDĐPNN hiện hành. Việc căn cứ vào mục đích sử dụng của người nộp thuế để xác định hệ số xác định diện tích đất tính thuế sẽ đảm bảo công bằng và đúng bản chất của thuế tài sản, đảm bảo điều tiết cao đối với những người có tài sản giá trị lớn, buộc người được hưởng lợi nhiều từ việc sử dụng kết cấu hạ tầng giao thông, phúc lợi xã hội phải có nghĩa vụ cao hơn.

Tuy nhiên, quy định này cũng vấp phải các ý kiến trái chiều từ các nhà nghiên cứu. Có quan điểm cho rằng, việc quy định hệ số khác nhau để xác định diện tích đất chịu thuế cho các mục đích sử dụng khác nhau chưa hợp lý, mang tính áp đặt[10]. Và việc áp dụng hệ số khác nhau để tính diện tích đất chịu thuế đối với mục đích sử dụng khác nhau sẽ làm cho việc xác định thuế sẽ trở nên rối rắm, phức tạp hơn. Vì vậy, cần quy định chung một hệ số xác định diện tích đất chịu thuế đối với nhà chung cư, toà nhà có mục đích sử dụng hỗn hợp trong đó có mục đích ở (không phân biệt giữa diện tích đất ở với diện tích kinh doanh và số tầng của toà nhà). Chúng tôi cũng cho rằng, căn cứ vào hệ số để xác định diện tích đất là khiên cưỡng, không phản ánh đúng bản chất của sự vật hiện tượng. Việc buộc người có tài sản giá trị lớn, được hưởng lợi nhiều từ việc sử dụng kết cấu hạ tầng giao thông, phúc lợi xã hội phải có nghĩa vụ cao hơn là cần thiết nhưng không vì thế mà tạo ra sự áp đặt quá mức. Trong trường hợp này, chúng ta chỉ nên áp dụng mức thuế suất khác nhau đối với diện tích để ở và diện tích để kinh doanh mà không cần sử dụng hệ số xác định diện tích đất.

(ii) Giá 1m2 đất tính thuế

Tờ trình của Bộ Tài chính đề xuất giá 1m2 đất tính thuế theo theo hai phương án: Một là, giá 1m2 đất tính thuế được xác định theo giá 1m2 đất tại Bảng giá đất do Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh công bố tại thời điểm tính thuế; hai là, giá 1m2 đất tính thuế được xác định theo giá 1m2 đất thực tế trên thị trường (giá thị trường) tại thời điểm tính thuế. Tuy nhiên, sau khi đánh giá ưu nhược điểm của từng phương án thì phương án xác định theo giá 1m2 đất tại Bảng giá đất do UBND cấp tỉnh công bố là phương án được đề xuất vào Dự thảo.

Hiện nay, giá 1m2 đất tính thuế theo quy định của Luật Thuế SDĐPNN hiện hành được xác định theo giá 1m2 đất tại Bảng giá đất do UBND cấp tỉnh công bố tại thời điểm tính thuế. Phương pháp này được cho là đơn giản, khả thi, thuận lợi cho người nộp thuế trong việc kê khai thuế; thuận lợi cho cơ quan thuế trong việc xác định giá tính thuế do giá của 1m2 đất được lấy theo giá 1m2 đất tại Bảng giá đất do UBND cấp tỉnh công bố nên đã có sẵn; đảm bảo tính kế thừa các quy định của pháp luật về thuế SDĐPNN hiện hành và phù hợp với quy định của Luật Đất đai năm 2013 về quy định giá tính thuế sử dụng đất đối với đất. Tuy nhiên, nhược điểm khi xác định giá đất theo phương pháp này là không theo kịp sự biến động của giá cả thị trường. Nhìn chung, việc xác định giá của 1m2 đất tại Dự thảo không có sự khác biệt với quy định của Luật Thuế SDĐPNN hiện hành.

Chúng tôi cho rằng, việc ban hành Luật Thuế tài sản thay cho Thuế SDĐNN và Thuế SDĐPNN có các ưu điểm là phương pháp xác định hệ số xác định diện tích đất tính thuế có tính đến mục đích sử dụng đất. Cách thức xác định này đảm bảo công bằng và phù hợp với thực tế hơn so với quy định cào bằng của Luật Thuế SDĐPNN trước đây.

Thứ hai, các quy định về thuế suất thuế tài sản đối với đất phi nông nghiệp

Thuế suất là cơ sở quan trọng mà Nhà nước sử dụng để thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Do đó, thuế suất được ban hành không thể là sự áp đặt chủ quan, đưa ra một con số ước lượng mà cần phải dựa trên cơ sở kinh tế – xã hội, nguồn thu của NSNN, mức độ tác động đến mức sống dân cư,… phải đảm bảo dung hòa giữa lợi ích của Nhà nước và người thực tế phải trả tiền thuế. Hay nói cách khác là phải đảm bảo kết hợp hài hòa giữa nhu cầu thu NSNN và lợi ích của người chịu thuế.

Hiện nay, thuế suất Thuế SDĐPNN đối với đất ở áp dụng theo biểu thuế luỹ tiến từng phần, cụ thể: đối với đất ở, đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp là 0,03%, trong trường hợp vượt từ trên 1 lần đến 3 lần và trên 3 lần hạn mức sử dụng đất thì lần lượt bị áp dụng các mức thuế suất là 0,07% và 0,15%; đất sử dụng không đúng mục đích, đất chưa sử dụng theo đúng quy định là 0,15%; đất lấn, chiếm là 0,2%[11].

Trước đây, Pháp lệnh về Thuế nhà đất gọi thuế suất là mức thuế, theo đó mức thuế sử dụng đất có sự khác biệt tùy thuộc vào vị trí đất[12]: (i) Đối với đất thuộc thành phố, thị xã, thị trấn, mức thuế đất được quy định cho từng loại đô thị, mức thuế đất bằng 3 đến 25 lần mức thuế nông nghiệp cao nhất trong vùng; (ii) Đối với đất thuộc vùng nông thôn, mức thuế đất từ bằng đến gấp 2 lần mức thuế nông nghiệp cùng hạng đất trong vùng.

Hiện nay, tình hình kinh tế – xã hội của Việt Nam đã có những thay đổi đáng kể thì các mức thuế suất 0,07% và 0,15% tương ứng với diện tích đất vượt từ trên 1 lần đến 3 lần và trên 3 lần hạn mức sử dụng đất ở là thấp, chủ sử dụng đất không bị tác động nhiều từ thuế, đất không được sử dụng hết hiệu suất cho sản xuất, kinh doanh, thậm chí còn bị bỏ trống, gây lãng phí nguồn tài nguyên đất đai. Mức thuế suất này chưa đủ lớn để điều tiết mạnh đối với người sở hữu nhiều đất đai, chưa thúc đẩy các tổ chức, cá nhân trong xã hội sử dụng đất tiết kiệm, có hiệu quả.

Theo quy định của Dự thảo Luật Thuế tài sản, thuế suất đối với đất thuộc đối tượng chịu thuế SDĐPNN được chia thành nhiều loại, gồm[13]:

(i) Đất ở (bao gồm cả trường hợp sử dụng để kinh doanh; đất xây dựng nhà chung cư): áp dụng mức thuế suất là 0,4% trên toàn bộ giá trị đất.

(ii) Đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp và đất phi nông nghiệp sử dụng vào mục đích kinh doanh có hai phương án điều tiết: Một là, đối với đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp để xây dựng nhà hàng áp dụng mức thuế suất 0,52%; đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp khác, trừ đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp quy định tại điểm a khoản này và đất phi nông nghiệp thuộc đối tượng không chịu thuế sử dụng vào mục đích kinh doanh áp dụng mức thuế suất 0,3%. Hai là, đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp và đất phi nông nghiệp sử dụng vào mục đích kinh doanh áp dụng mức thuế suất 0,3%.

(iii) Đối với đất sử dụng không đúng mục đích; đất và nhà thuộc đối tượng chịu thuế không đưa vào sử dụng áp dụng mức thuế suất 1%.

(iv) Đối với đất và nhà thuộc đối tượng chịu thuế lấn, chiếm áp dụng mức thuế suất áp dụng mức thuế suất 2%.

Các mức thuế suất trong những trường hợp cụ thể được Dự thảo đưa ra đều tăng khoảng 6,7 – 10 lần so mức thuế suất hiện hành của Luật Thuế SDĐPNN. Chưa bàn đến sự phù hợp của con số cụ thể được đưa ra, việc điều chỉnh mức thuế suất sẽ có những tác động nhất định đến NSNN và đời sống dân cư.

Ở nước trên thế giới, mức thuế suất điều tiết đối với đất phi nông nghiệp cũng ở mức khá cao, chẳng hạn như Hàn Quốc là 0,2% đến 0,5% đối với đất (riêng đất xây dựng khu golf và đất xây dựng khu du lịch hạng sang là 4%); Đài Loan: từ 0,2% đến 5% tùy từng loại đất. Đối với đất không sử dụng, các nước quy định mức thuế suất cao hơn hoặc áp dụng mức thuế suất bổ sung đối với trường hợp đất không sử dụng, như: Xinh-ga-po áp dụng mức thuế suất từ 10% đến 20% đối với đất không sử dụng; Canada thu thêm 1% trên giá trị tài sản nếu đất không sử dụng trên 6 tháng; Úc áp dụng mức thuế suất bổ sung 1%; Lào áp dụng mức thuế suất bổ sung 2%[14]. Tuy không thể căn cứ vào mức thuế suất được các nước quy định để áp dụng cho Việt Nam nhưng việc thay đổi mức thuế suất điều tiết đối với đất phi nông nghiệp của Dự thảo Luật Thuế tài sản cũng được xem là phù hợp với thông lệ của các nước trên thế giới và có những ưu điểm sau:

Về mặt kinh tế: Việc tăng mức thuế suất đối với đất phi nông nghiệp được xem là phù hợp với tình hình phát triển kinh tế – xã hội ở Việt Nam. Đồng thời, việc tăng thuế suất cũng tạo thêm nguồn thu và có tính ổn định của NSNN, ít bị ảnh hưởng bởi yếu tố chu kỳ kinh tế như các loại thuế đánh vào thu nhập và hàng hóa tiêu thụ. Tuy nhiên, mức tăng từ 6,7 đến 10 lần như Dự thảo Luật Thuế tài sản do Bộ Tài chính đưa ra là một con số quá cao so với các quy định về thuế suất thuế SDĐPNN hiện hành. Đây là vấn đề mà cơ quan soạn thảo phải có các nghiên cứu và đánh giá tác động kỹ lưỡng để đưa ra một con số phù hợp đảm bảo dung hòa lợi ích của Nhà nước và người chịu thuế.

Về mặt xã hội: Việc điều chỉnh mức thuế suất cao đối với đất sử dụng không đúng mục đích; đất và nhà thuộc đối tượng chịu thuế không đưa vào sử dụng; đất và nhà thuộc đối tượng chịu thuế lấn, chiếm sẽ góp phần hạn chế tình trạng đầu cơ về đất, sử dụng đất lãng phí, chiếm dụng đất công, tạo sự ổn định trật tự xã hội.

Như vậy, việc ban hành Luật Thuế tài sản thay thế cho Luật Thuế SDĐNN và Luật Thuế SDĐPNN hiện hành là phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội ở Việt Nam. Đồng thời, các quy định trong sắc thuế mới này cũng phù hợp với thông lệ quốc tế, thể hiện được những ưu điểm về quản lý và góp phần ổn định trật tự xã hội.

 

Tài liệu tham khảo:

  1. Dự thảo Luật Thuế Tài sản ban hành kèm theo Tờ trình của Bộ Tài chính.
  2. Luật Thuế SDĐPNN 2010.
  3. Luật Thuế SDĐNN 1993.
  4. Nghị quyết số 55/2010/QH12 ngày 24/10/2010 của Quốc hội về việc miễn, giảm thuế SDĐNN.
  5. Nghị quyết số 28/2016/QH13 sửa đổi Nghị quyết số 55/2010/QH12 ngày 11/11/2016 của Quốc hội về việc miễn, giảm thuế SDĐNN.
  6. Pháp lệnh về Thuế nhà, đất 1991.
  7. Nghị định số 339-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về thi hành Pháp lệnh về Thuế nhà, đất.
  8. Quyết định số 732/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 17/5/2011 phê duyệt Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020.
  9. Tờ trình về đề nghị xây dựng Luật Thuế tài sản của Bộ Tài chính đăng trên website của Bộ Tài chính, http://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/btc/r/cd/dtvb/ctdtvb?id=13262&_afrLoop=37817301569107312#!%40%40%3F_afrLoop%3D37817301569107312%26centerWidth%3D0%2525%26id%3D13262%26leftWidth%3D100%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3D1262noxyws_4.
  10. Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh,Giáo trình Luật Thuế, Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam.
  11. Nguyễn Thị Kiều Oanh,Xác định căn cứ tính thuế tài sản đối với đất chịu thuế, Kỷ yếu Hội thảo Cơ sở xây dựng Luật Thuế Tài sản của Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 145 – 150.
  12. Nguyễn Đình Chiến,Thuế tài sản và khoảng trống cơ sở cần phải lấp đầy, Tạp chí Tài chính Kỳ 1 – tháng 8/2017 (662), tr 14.
  13. Vũ Thị Hương Sắc,Dự báo tăng trưởng GDP bình quân đầu người giai đoạn 2017 – 2020, Tạp chí Tài chính điện tử, http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/du-bao-tang-truong-gdp-binh-quan-tren-dau-nguoi-giai-doan-2017-2020-117233.html, truy cập ngày 31/5/2018.

Bài viết được đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 19, kỳ 1 tháng 10/2018


[1] Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật Thuế, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 49.

[2] Nguyễn Đình Chiến, Thuế tài sản và khoảng trống cơ sở cần phải lấp đầy, Tạp chí Tài chính Kỳ 1 – tháng 8/2017 (662), tr. 14.

[3] Nguyễn Đình Chiến, tlđd (2), tr. 14.

[4] Tờ trình về đề nghị xây dựng Luật Thuế tài sản của Bộ Tài chính được đăng tải trên website của Bộ Tài chính, http://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/btc/r/cd/dtvb/ctdtvb?id=13262&_afrLoop=37817301569107312#!%40%40%3F_afrLoop%3D37817301569107312%26centerWidth%3D0%2525%26id%3D13262%26leftWidth%3D100%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3D1262noxyws_4, truy cập ngày 27/5/2018 (Tờ trình của Bộ Tài chính).

[5] Điều 2 Dự thảo Luật Thuế Tài sản ban hành kem theo Tờ trình của Bộ Tài chính.

[6] Nghị quyết số 55/2010/QH12 ngày 24/10/2010 của Quốc hội về việc miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp; Nghị quyết số 28/2016/QH13 sửa đổi Nghị quyết số 55/2010/QH12 ngày 11/11/2016 của Quốc hội về việc miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp.

[7] Khoản 1, Điều 6, Luật Thuế SDĐPNN và khoản 1, Điều 7 Dự thảo Luật Thuế tài sản.

[8] Khoản 2, Điều 6 Luật Thuế SDĐPNN 2010.

[9] Xem thêm bảng mô tả hệ số xác định diện tích đất tính thuế tại Mục 1.2 Tờ trình của Bộ Tài chính.

[10] Xem thêm: Nguyễn Thị Kiều Oanh (2018), Xác định căn cứ tính thuế tài sản đối với đất chịu thuế, Kỷ yếu Hội thảo Cơ sở xây dựng Luật Thuế Tài sản của Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 146.

[11] Điều 7 Luật Thuế SDĐPNN 2010.

[12] Điều 7 Pháp lệnh về Thuế nhà, đất và khoản 1 Điều 6 Nghị định số 339-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về thi hành Pháp lệnh về Thuế nhà, đất.

[13] Điều 8 Dự thảo Luật Thuế Tài sản kèm theo Tờ trình của Bộ Tài chính.

[14] http://cafef.vn/cac-nuoc-dang-danh-thue-nha-dat-ra-sao-20180416093211966.chn, truy cập ngày 16/4/2018

đánh giá bài viết

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền