Hỗ trợ của tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại

Chuyên mụcLuật thương mại Ôn tập môn luật thương mại

Hiện nay, việc giải quyết các tranh chấp ở Việt Nam chủ yếu được xét xử thông qua hệ thống Toà ánTrọng tài. Tuy nhiên, một vấn đề nhận thấy rõ ràng là trong khi số vụ tranh chấp được giải quyết bằng con đường Trọng tài thương mại còn rất khiêm tốn thì hệ thống Toà án đã trở nên quá tải, dẫn đến tăng số lượng vụ án tồn đọng, không kịp giải quyết, do đó làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

 

I – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CÓ LIÊN QUAN

 

1. Khái quát chung về Trọng tài thương mại

Trọng tài là thể thức giải quyết tranh chấp theo đó các bên đưa những tranh chấp ra trước một trọng tài viên hoặc Ủy ban trọng tài để giải quyết và trọng tài sau khi xem xét vụ việc sẽ đưa ra một phán quyết ràng buộc các bên tranh chấp. Theo khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại 2010 thì: “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này”.

 

2. Sự cần thiết phải có sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động Trọng tài thương mại

Thứ nhất, xuất phát từ bản chất của trọng tài: trọng tài là cơ quan tài phán phi chính phủ có quyền lực bắt nguồn từ “quyền lực hợp đồng” do các bên tranh chấp giao phó, ủy nhiệm do đó trọng tài không mang trong mình quyền lực nhà nước khi giải quyết tranh chấp, phán quyết của trọng tài không mang tính quyền lực nhà nước, không đại diện cho ý chí của Nhà nước mà đại diện cho ý chí của các bên tranh chấp. Điều này đã đặt ra cho Trọng tài thương mại những khó khăn khi không có sự đồng thuận, hợp tác thiện chí của cả hai bên tranh chấp trong quá trình tố tụng cũng như việc thi hành phán quyết trọng tài. Khi những khó khăn này vượt ra khỏi sự kiểm soát của trọng tài và cần đến sự giúp đỡ của Tòa án và các cơ quan tư pháp khác. Vì vậy sự hỗ trợ của Tòa án có ý nghĩa rất quan trọng nhằm tránh bế tắc cho hoạt động trọng tài, để trọng tài có thể giải quyết tốt các tranh chấp mà các bên đã tin tưởng giao phó. Ví dụ như: trong quá trình thành lập Hội đồng trọng tài, có trường hợp bị đơn không chọn được trọn tài viên cho mình, hay các bên không chọn được trọng tài viên duy nhất; nếu có một bên tranh chấp tẩu tán tài sản, làm thất thoát khối tài sản của mình nhằm trốn tránh nghĩa vụ tài sản đối với bên kia thì trọn tài cũng không thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với các hành vi đó,… Điều đó đặt ra vấn đề cần phải có sự hỗ trợ của Tòa án cho hoạt động của trọng tài để khắc phục những điểm yếu và phát huy những điểm mạnh của trọng tài. Có như vậy mới đảm bảo cho quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài được thông suốt và hiệu quả.

 

Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu, thực tiễn giải quyết tranh chấp ở Việt Nam:

 

Các tranh chấp phát sinh trong thực tiễn kinh doanh ở Việt Nam ngày một nhiều hơn và đa dạng về chủng loại, phức tạp về tính chất. Điều này đòi hỏi phải có nhiều phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả để đáp ứng các yêu cầu khác nhau của chủ thể kinh doanh. Tại Việt Nam, trọng tài thương mại đã có lịch sử tồn tại khá lâu dài, tuy nhiên chưa phải là hình thức được các nhà kinh doanh ưa chuộng, căn bản là do thiếu sự hỗ trợ từ phía các cơ quan Nhà nước nói chung và cơ quan Tòa án nói riêng. Thực tiễn này đòi hỏi các cơ quan Nhà nước nói chung, cơ quan Tòa án nói riêng phải có sự hỗ trợ nhất định đối với trọng tài. Chính sự hỗ trợ đó sẽ làm cho hoạt động trọng tài được đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước, đồng thời không làm mất đi ưu thế của hình thức giải quyết tranh chấp tôn trọng tối đa quyền tự định đoạt của các đương sự.

 

Thứ ba, xuất phát từ tình trạng quá nhiều án tồn đọng tại các Tòa kinh tế:

 

Cùng với sự phát triển sôi động của các quan hệ kinh tế, các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại được đưa đến Tòa kinh tế ngày càng nhiều, đã tạo ra tình trạng “quá tải”, án tồn đọng tại các Tòa kinh tế, đặc biệt là ở một số thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh.

 

Thứ tư, xuất phát từ yêu cầu quản lý Nhà nước đối với hoạt động trọng tài: Nhà nước nói chung và các cơ quan Nhà nước nói riêng có thẩm quyền quản lý hoạt động của cá nhân, tổ chức trong xã hội, trong đó có trọng tài. Nhà nước thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật quy định về trọng tài đã thể hiện sự quản lý của mình đối với hoạt động của trọng tài, đồng thời tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động của trọng tài.

 

Như vậy mối quan hệ đặc trưng giữa Toà án và Trọng tài là mối quan hệ hỗ trợ và giám sát. Nhờ có sự hỗ trợ và giám sát của Toà án mà trọng tài tuy là tổ chức tài phán phi chính phủ nhưng vẫn hoạt động được một cách có hiệu quả. Việc thừa nhận vai trò, trách nhiệm của Toà án nhân dân trong hỗ trợ, giám sát hoạt động tố tụng giải quyết tranh chấp của Trọng tài thương mại là một sự tiếp sức cho Trọng tài thương mại, thể hiện quan điểm của nhà nước trong việc đa dạng hoá phương thức giải quyết tranh chấp và tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các chủ thể kinh doanh được sự bảo hộ của nhà nước về mặt pháp lý trong quá trình thực hiện giao dịnh thương mại.

 

II – SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THÔNG QUA BA QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

 

Sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại được thể hiện thông qua các quy định của Luật Trọng tài thương mại 2010. Luật đã đưa ra hàng loạt các quy định thể hiện rõ nét sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại. Đó là:

 

1. Quy định về việc xác định Tòa án có thẩm quyền chỉ định, thay đổi trọng tài viên

Trong tố tụng trọng tài, việc thành lập Hội đồng trọng tài để giải quyết tranh chấp hoàn toàn là quyền của các bên tranh chấp. Các bên tranh chấp có quyền lựa chọn thành lập Hội đồng trọng tài có thể bao gồm một hay nhiều Trọng tài viên tùy theo sự thỏa thuận của các bên, trường hợp các bên không có sự thỏa thuận về số lượng Trọng tài viên thì Hội đồng trọng tài bao gồm ba Trọng tài viên (Điều 39 Luật Trọng tài thương mại).

 

Tuy nhiên, đối với việc thành lập Hội đồng trọng tài vụ việc, nếu bị đơn hoặc các bị đơn không chọn được trọng tài viên, hoặc các Trọng tài viên không bầu được một Trọng tài viên khác làm Chủ tịch Hội đồng trọng tài, hoặc các bên không chọn được Trọng tài viên duy nhất (trường hợp các bên thỏa thuận vụ tranh chấp do một trọng tài viên duy nhất giải quyết) thì Tòa án nơi bị đơn cư trú hoặc nơi có trụ sở theo yêu cầu của một hoặc các bên có quyền đưa ra quyết định chỉ định Trọng tài viên, chỉ định Chủ tịch Hội đồng trọng tài trong các trường hợp trên (Điều 41 Luật Trọng tài thương mại).

 

Tại khoản 4 Điều 42 Luật Trọng tài thương mại có quy định: “Đối với vụ tranh chấp do Hội đồng trọng tài vụ việc giải quyết, việc thay đổi Trọng tài viên sẽ do các thành viên còn lại của Hội đồng trọng tài quyết định. Trong trường hợp các thành viên còn lại của Hội đồng trọng tài không quyết định được hoặc nếu các Trọng tài viên hay Trọng tài viên duy nhất từ chối giải quyết tranh chấp, thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của một hoặc các Trọng tài viên nói trên, của một hoặc các bên tranh chấp, Chánh án Toà án có thẩm quyền phân công một Thẩm phán quyết định về việc thay đổi Trọng tài viên”. Như vậy đối với trường hợp cần phải thay đổi Trọng tài viên theo quy định của pháp luật (trong vụ tranh chấp do Hội đồng trọng tài vụ việc giải quyết), nếu các thành viên còn lại của Hội đồng trọng tài không quyết định được hoặc nếu các Trọng tài viên hay Trọng tài viên duy nhất từ chối giải quyết tranh chấp, thì Tòa án có thẩm quyền (Tòa án nơi Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp) có thể hỗ trợ việc quyết định thay đổi Trọng tài viên này. Cụ thể là Chánh án Tòa án có thẩm quyền sẽ phân công một Thẩm phán quyết định về việc thay đổi Trọng tài viên.

 

Trong khi đó, Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 quy định chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết là nguyên đơn, điều này đã hạn chế quyền của các Trọng tài viên và bên bị đơn trong việc yêu cầu Tòa án thay đổi Trọng tài viên. Nói cách khác, theo Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003, nếu không có yêu cầu của nguyên đơn thì không phát sinh thẩm quyền của Tòa án trong việc thay đổi Trọng tài viên. Có thể thấy, Luật Trọng tài thương mại 2010 đã khắc phục được hạn chế này của Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003, điều này đảm bảo sự công bằng và quyền lợi chính đáng của các bên tranh chấp.

 

Bên cạnh đó, Luật Trọng tài thương mại 2010 còn có quy định tại khoản 4 Điều 43 đối với trường hợp Trọng tài viên được lựa chọn không thể tiếp tục tham gia giải quyết tranh chấp: “Trường hợp các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài vụ việc, nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà Trọng tài viên không thể tham gia giải quyết tranh chấp, thì các bên có thể thỏa thuận lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế; nếu không thỏa thuận được, thì có quyền khởi kiện ra Tòa án để giải quyết”. Theo đó, Tòa án cũng có thể hỗ trợ trong trường hợp Trọng tài viên được lựa chọn không thể tiếp tục tham gia giải quyết tranh chấp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan.

 

Như vậy, các quy định trên của Luật Trọng tài thương mại đã tránh được các bế tắc trong tố tụng trọng tài, đồng thời đảm bảo vụ tranh chấp sẽ được trọng tài giải quyết. Bởi vì, vụ tranh chấp đã được các bên thỏa thuận giải quyết theo thủ tục trọng tài, Tòa án không thụ lý giải quyết. Việc không thành lập được Hội đồng trọng tài hoặc không chọn được Trọng tài viên duy nhất gây khó khăn cho việc giải quyết tranh chấp. Vì thế, quyền lợi của các bên tranh chấp khó được đảm bảo, đặc biệt là bên có quyền và lợi ích bị xâm phạm. Do đó, sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại trong việc chỉ định, thay đổi Trọng tài viên là việc hết sức cần thiết. Sự can thiệp của quyền lực nhà nước vào hoạt động trọng tài bằng việc chỉ định, thay đổi Trọng tài viên đã làm cho trọng tài có thể thực hiện được nhiệm vụ mà các bên tranh chấp giao phó, giúp các bên tháo gỡ những bất đồng, mâu thuẫn đã phát sinh.

 

2. Quy định về áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời

Có các tranh chấp xảy ra với nội dung phức tạp, mức độ tranh chấp gay gắt… chúng đòi hỏi phải được giải quyết kịp thời, nhằm bảo vệ quyền lợi cho các đương sự. Do đó, trong quá trình HĐTT giải quyết vụ tranh chấp, nếu cảm thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại thì các bên có quyền làm đơn đến Tòa án để yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời thích hợp để bảo vệ tài sản đang bị tranh chấp theo quy định tại Điều 48 Luật trọng tài thương mại 2010 “Các bên tranh chấp có quyền yêu cầu Hội đồng trọng tài, Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của Luật này và các quy định của pháp luật có liên quan, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác; Việc yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không bị coi là sự bác bỏ thỏa thuận trọng tài hoặc khước từ quyền giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài”. Theo đó, HĐTT hoặc Tòa án có quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời khi có một hoặc các bên đương sự yêu cầu, tùy theo sự thỏa thuận giữa các bên.

 

Cụ thể, những biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc thẩm quyền của HĐTT được quy định tại Khoản 2 Điều 49 Luật trọng tài thương mại, còn các trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác do Tòa án thực hiện được quy định tại Khoản 1 Điều 53 Luật trọng tài thương mại: “Sau khi nộp đơn khởi kiện, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại, một bên có quyền làm đơn gửi đến Toà án có thẩm quyền yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời”. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời mà Tòa án có thẩm quyền thực hiện được quy định tại Điều 102 Bộ Luật tố tụng dân sự 2004. Vì vậy, khi yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, các bên cần lưu ý để gửi đơn yêu cầu tới đúng cơ quan có thẩm quyền.

 

Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Tòa án áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định tại Điều 53 Luật trọng tài thương mại 2010. Điều này cho thấy pháp luật cũng có sự can thiệp đáng kể bằng sức mạnh của quyền lực nhà nước đối với hoạt động của Trọng tài thương mại, giúp cho trọng tài hoạt động có hiệu quả hơn và bảo vệ tốt quyền lợi của các đương sự tham gia vụ kiện.

 

Ngoài ra, Khoản 3 Điều 49 Luật Trọng tài thương mại có quy định: “Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu một trong các bên đã yêu cầu Tòa án áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 2 Điều này mà sau đó lại có đơn yêu cầu Hội đồng trọng tài áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Hội đồng trọng tài phải từ chối” và Khoản 5 Điều 53 cũng có quy định: “Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu một trong các bên đã yêu cầu Hội đồng trọng tài áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời mà lại có đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án phải từ chối và trả lại đơn yêu cầu, trừ trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài”. Theo đó, nguyên tắc của Luật là nếu HĐTT đã áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án sẽ từ chối, trừ trường hợp những nội dung không thuộc thẩm quyền của HĐTT. Nếu Tòa án đã áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì HĐTT phải từ chối. Ta có thể thấy Tòa án đóng vai trò hỗ trợ rất lớn trong trường hợp các bên đã có yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc các biện pháp khẩn cấp tạm thời không thuộc thẩm quyền của HĐTT.

 

Như vậy ta có thể Luật trọng tài thương mại đã dự liệu và phân định phạm vi thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời giữa HĐTT và Tòa án nhằm tránh tình trạng xung đột về thẩm quyền, nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc trong mọi trường hợp các bên đều có thể làm đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

 

Việc pháp luật cho phép các bên có quyền yêu cầu HĐTT hoặc Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm đảm bảo quyền lợi của mình trong vụ việc giải quyết tranh chấp, khi các bên thấy cần phải bảo vệ tài sản bị tranh chấp trước nguy cơ tẩu tán tài sản hoặc các hành vi khác nhằm giảm giá trị của tài sản tranh chấp. Sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thể hiện rất rõ ở việc Tòa án có thể dùng sức mạnh cưỡng chế nhà nước mà mình có được để áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, điều mà HĐTT tuy cũng có thể thực hiện nhưng không thể thực hiện triệt để, tốt bằng Nhà nước do không có được do không nhân danh Nhà nước và thực hiện quyền lực Nhà nước. Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án có giá trị pháp lý cao hơn, hiệu quả thi hành tốt hơn việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của HĐTT.

 

Tòa án có thẩm quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời là Tòa án nơi có biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng. Đây là một quy định tiến bộ hơn so với Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003. Pháp lệnh Trọng tài thương mại có quy định hạn hẹp là: chỉ Tòa án nơi Hội đồng trọng tài thụ lý vụ tranh chấp mới có quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Điều này có thể gây khó khăn cho cả Tòa án và các bên trong quá trình áp dụng quy định này. Ví dụ: khi các bên kiện ra Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, theo Pháp lệnh trọng tài, nếu muốn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì chỉ được phép làm đơn yêu cầu Tòa án nhân dân Hà Nội ra lệnh áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Điều này chỉ hợp lý và thuận tiện khi cả hai bên đều có trụ sở tại Hà Nội hoặc đối tượng tài sản yêu cầu áo dụng đặt tại Hà Nội. Khi tài sản nằm ở địa bàn khác thì việc yêu cầu Tòa án Hà Nội ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là hoàn toàn không khả thi và hợp lý.

 

Một điểm khác biệt của Luật Trọng tài thương mại 2010 so với Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 là việc Luật quy định Hội đồng trọng tài có quyền áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời để các bên duy trì, khôi phục hiện trạng tranh chấp, tiến hành các biện pháp bảo quản tài sản cần thiết đảm bảo cho việc thi hành phán quyết, bảo quản chứng cứ liên quan hay bảo quản tài sản liên quan đến tranh chấp. Quy định này cho thấy thẩm quyền của Hội đồng trọng tài đã thực sự được mở rộng gần với thẩm quyền của Tòa án. Quy định như vậy là hợp lý vì Hội đồng trọng tài là cơ quan giải quyết tranh chấp, hơn ai hết, họ là những người hiểu rõ nhất nội dung vụ việc, cũng như mức độ, tính cần thiết của các biện pháp cần áp dụng Tuy nhiên, vì Hội đồng trọng tài không phải là cơ quan đại diện cho quyền lực nhà nước mà là do các bên tranh chấp trao cho trên cơ sở pháp luật; hơn nữa việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể làm ảnh hưởng tới quyền lợi của bên bị áp dụng, nên khi ra quyết định, Hội đồng trọng tài phải rất thận trọng.

 

Như vậy có thể khẳng định, việc Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định có sự tham gia của Tòa án trong việc hỗ trợ trọng tài thương mại áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời là một quy định hết sức cần thiết và có ý nghĩa. Nó không chỉ đảm bảo cho quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài có hiệu quả mà còn làm cho phán quyết của trọng tài có tính khả thi, đảm bảo uy tín và hiệu quả của hoạt động trọng tài.

 

 

3. Quy định về hủy phán quyết của trọng tài

Một yếu tố đảm bảo cho tính khả thi trong phán quyết của trọng tài là các quy định về hủy quyết định trọng tài phải hợp lý và chặt chẽ, tránh trường hợp quyết định trọng tài có thể bị bên thua kiện yêu cầu hủy một cách tùy tiện. Tố tụng trọng tài không có nhiều giai đoạn xét xử, không có thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Vì vậy, không ai có thể đảm bảo rằng quyết định giải quyết tranh chấp của trọng tài luôn luôn đúng về mọi phương diện. Để có thể hạn chế tối đa những sai sót trong quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, khoản 1 Điều 44 Luật Trọng tài thương mại 2010 đã quy định: bên không đồng ý với quyết định trọng tài “có quyền gửi đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền xem xét lại quyết định của Hội đồng trọng tài”.

 

Khoản 1 Điều 68 Luật trọng tài thương mại 2010 quy định: “Tòa án xem xét việc hủy phán quyết trọng tài khi có đơn yêu cầu của một bên”.

 

Quá trình giải quyết tranh chấp không có nhiều giai đoạn xét xử, không có thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Vì vậy, để có thể hạn chế tối đa những sai sót trong quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia Luật trọng tài thương mại 2010 quy định, bên không đồng ý với quyết định trọng tài có quyền làm đơn gửi Tòa án yêu cầu hủy quyết định trọng tài. Như vậy, Tòa án với tư cách là cơ quan quyền lực Nhà nước có thẩm quyền xem xét lại quyết định trọng tài.

 

Khi nhận đơn yêu cầu hủy quyết định trọng tài của một bên, Tòa án không xét xử lại mà chỉ đối chiếu vào các căn cứ hủy phán quyết của trọng tài quy định tại Khoản 2 Điều 68 Luật trọng tài thương mại 2010:

 

– Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu;

– Thành phần HĐTT, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này;

– Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của HĐTT; trường hợp phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của HĐTT thì nội dung đó bị huỷ;

– Chứng cứ do các bên cung cấp mà HĐTT căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài;

– Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

 

Nếu bên yêu cầu chứng minh được rằng quyết định mà trọng tài đã tuyên thuộc một trong các trường hợp trên thì Tòa án sẽ ra quyết định hủy phán quyết của trọng tài. Đối với yêu cầu hủy phán quyết trọng tài với căn cứ “Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”, Tòa án có trách nhiệm chủ động xác minh thu thập chứng cứ để quyết định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài. Ngoài ra pháp luật cũng quy định có sự tham gia của Viện kiểm sát trong hoạt động hủy quyết định của trọng tài, với chức năng giám sát hoạt động của Tòa án. Quyết định của Toà án là quyết định cuối cùng và có hiệu lực thi hành (Khoản 10 Điều 71).

 

Như vậy, quyền yêu cầu Tòa án huỷ phán quyết trọng tài của các bên tranh chấp chỉ phát sinh nếu một bên có đủ căn cứ để chứng minh HĐTT đã ra phán quyết thuộc một trong những trường hợp phán quyết trọng tài bị hủy. Khoản 1 Điều 69 Luật trọng tài thương mại 2010 quy định “…nếu một bên có đủ căn cứ để chứng minh được rằng Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong những trường hợp phán quyết trọng tài bị hủy theo khoản 2 Điều 68 Luật này, thì có quyền làm đơn gửi Toà án có thẩm quyền yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài”. Ở đây có sự khác biệt so với Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003. Theo Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003, một bên có quyền gửi đơn lên Toà án yêu cầu huỷ quyết định trọng tài nếu “không đồng ý với quyết định trọng tài”. Việc “không đồng ý” dựa trên nguyên nhân nào thì pháp luật lại không truy xét đến, do đó không thể tránh được tình trạng các bên yêu cầu huỷ quyết định trọng tài với nhiều mục đích khác nhau, kể cả việc kéo dài thời hạn thi hành quyết định trọng tài, để kịp tẩu tán tài sản… Điều này không những làm hạn chế hiệu quả, mục đích thực sự của quy định này mà còn làm cho tố tụng trọng tài trở nên rất rủi ro. Một khi đưa đơn yêu cầu huỷ ra Toà án, thủ tục giải quyết đơn yêu cầu huỷ tại Toà án phải qua hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm, thời gian giải quyết tại Toà án cũng không xác định là bao lâu. Như vậy, nếu như các bên mong muốn được giải quyết tranh chấp bằng trọng tài do trọng tài có ưu điểm nhanh chóng, đơn giản thì thực tế các quy định của Pháp lệnh lại làm ưu điểm này có thể mấy đi. Quy định của Luật trọng tài thương mại 2010 đã khắc phục được những hạn chế này của Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các bên, hạn chế sự tuỳ tiện của Trọng tài viên…Sự quy định chặt chẽ về việc bên yêu cầu phải có căn cứ chứng minh việc phán quyết của HĐTT là sai giúp cho các bên phải tự chịu trách nhiệm với yêu cầu của chính mình, khi mà các bên có nhu cầu gửi đơn đến tòa án để yêu cầu Tòa hủy phán quyết của trọng tài, họ sẽ phải tìm hiểu và đối chiếu các căn cứ hủy phán quyết của trọng tài, điều này sẽ tránh được tình trạng bên phải thi hành không muốn thi hành phán quyết của trọng tài đưa ra yêu cầu huỷ quyết định trọng tài để kéo dài thời gian, tẩu tán tài sản hoặc hi vọng toà án sẽ xử lại và không bắt thi hành nghĩa vụ…

 

Bên cạnh đó, Luật trọng tài thương mại 2010 cũng có quy định giúp cho HĐTT có thời gian khắc phục sai sót, nhằm loại bỏ căn cứ hủy bỏ phán quyết trọng tài “Theo yêu cầu của một bên và xét thấy phù hợp, Hội đồng xét đơn yêu cầu có thể tạm đình chỉ việc xem xét giải quyết đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài trong thời hạn không quá 60 ngày để tạo điều kiện cho Hội đồng trọng tài khắc phục sai sót tố tụng trọng tài theo quan điểm của Hội đồng trọng tài nhằm loại bỏ căn cứ hủy bỏ phán quyết trọng tài. Hội đồng trọng tài phải thông báo cho Tòa án biết về việc khắc phục sai sót tố tụng” (Khoản 7 Điều 71). Trong trường hợp HĐTT không tiến hành khắc phục sai sót tố tụng thì Toà án tiếp tục xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.

 

Khi giải quyết Toà án không xét xử lại việc tranh chấp bởi Toà án không phải là cấp xét xử thứ hai của trọng tài. Toà án không có thẩm quyền kết luận đúng sai về nội dung phán quyết của Trọng tài đối với vấn đề xác định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia tranh chấp mà chỉ có quyền xem xét căn cứ để ra quyết định huỷ bỏ hoặc giữ nguyên quyết định trọng tài. Theo Khoản 8 Điều 71 Luật trọng tài thương mại, trường hợp quyết định trọng tài bị huỷ bỏ những thoả thuận các bên có được trong khi áp dụng phương thức trọng tài không còn, như vậy tranh chấp sẽ lại chưa được giải quyết, khi đó các bên lại tiến hành thoả thuận giải quyết tranh chấp lại từ đầu; còn nếu Toà án không hủy phán quyết trọng tài thì phán quyết trọng tài được thi hành.

 

Việc pháp luật quy định Tòa án có thẩm quyền hủy phán quyết của trọng tài khi các bên yêu cầu có tác động rất lớn, qua đó khắc phục được những sai phạm nếu có của HĐTT khi giải quyết tranh chấp, làm cho vụ giải quyết tranh chấp thực sự khách quan, công bằng, đúng pháp luật. Còn nếu quyết định của HĐTT đã tuyên không thuộc một trong các trường hợp bị hủy thì một lần nữa khẳng định rằng HĐTT đã thực hiện việc giải quyết tranh chấp một cách công bằngm đúng pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích của các bên và phán quyết đó cần được các bên tôn trọng và tự nguyện thi hành hoặc được cưỡng chế thi hành.

 

Như vậy, qua sự phân tích trên ta thấy, việc có sự hỗ trợ của Tòa án về việc hủy phán quyết trọng tài đối với những phán quyết vi phạm pháp luật của trọng tài thương mại giúp cho các nhà kinh doanh yên tâm hơn khi lựa chọn trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp, vì khi trọng tài có sự vi phạm pháp luật, Tòa án sẽ đứng ra giúp đỡ họ. Quy định này góp phần hạn chế sự tùy tiện trong hoạt động xét xử của Trọng tài viên, khiến cho Trọng tài viên phải khách quan, vô tư khi giải quyết tranh chấp.

 

Bài viết được đóng góp bởi bạn Trần Thị Hương – SV trường Đại học Luật Hà Nội

5/5 - (1 bình chọn)

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền